(Trích trong ’Kinh Nghiệm Và Cuộc Người Thợ Già Trị Bệnh’ của Lê Đức Thiếp, Việt Nam)
Bà Đức Thành, 38 tuổi, sinh lần thứ 5, lần nào sinh xong 5 -7 ngày sau là phát phù. Bốn lần trước cũng phát phù, uống thuốc của hai thầy, chỉ 2-3 thang là khỏi. Lần này đã uống của hai thầy đó 5 - 6 thang mà không khỏi lại càng phù nặng hơn. Thường mỗi khi ở nhà hộ sinh về 5 -7 ngày sau sạch sẽ máu, huyết hôi cũng không có nữa. Từ đó, sưng cả mặt mũi, tay chân, thân thể nặng nề, khó chịu, trong bụng bị tích không tiêu, không đủ sữa cho con bú, tiểu ít, ngủ kém, trong người mệt mỏi, không muốn làm việc gì. Mạch Trầm Vi mà Trì, sờ vào da thịt chân tay hơI mát, ấn ngón tay vào chỗ sưng ở mu bàn chân nó mềm trũng xuống, để ngón tay lâu lâu một lát, khi nhấc ngón tay lên, chỗ ấn đó bị trũng sâu xuống lâu mới trở lại bình thường.
Tôi cho là bà này nước da trắng bạch, hẳn là tạng hàn mới sinh xong thì huyết cũ phải cho ra hết nhưng vì tạng hàn, huyết gặp lạnh không ra, Thận không dẫn nước ra ngoài được tiểu không thông làm cho cơ thể bị phù. Bệnh thũng (phù ) này gọi là thủy thũng nhưng vì do huyết ứ, nên cũng gọi là huyết thũng.
Phương pháp trị liệu đúng nguyên tắc là phải cho lợi thủy (tiểu nhiều ). Nhưng chứng phù này gốc bởi huyết ứ đọng sinh ra. Gọi là huyết thũng thì phải tán ứ, hành huyết để tiêu thũng mới khỏi chứ không thể lợi thủy được. Các sách cổ dậy rằng: "Bệnh này (huyết thũng) cấm lợi thủy, vì nước ấy có chảy ra nhiều mà huyết ứ còn đó thì rồi huyết đó lại sinh thủy, do đó, nếu có lợi thủy cũng không khỏi. Mỗi lần bắt lợi thủy, thủy chưa chắc dã lợi vì huyết ứ không hành thì khí cũng trệ không hành, mà thủy không lợi. Nếu thủy có lợi được ít nhiều thì cũng phải dùng loại thuốc thấm lợi mạnh. Đã thấm lợi mạnh thì hại đến căn bản của khí huyết làm cho sức người yếu thêm thì bệnh thũng càng tăng, vì vậy, cấm lợi thủy. Do đó, cần cho tán ứ, hành huyết mới khỏi.
Bệnh này do Tỳ Vị gây ra, vì vậy cần ôn bổ Tỳ Vị cho thông hành rồi bổ huyết mạch và thông hơi lợi tiểu, làm sao mà không khỏi.
Cho dùng: Xuyên khung 12g để khua động mạch máu, cho mạch máu nóng ấm.
Đương quy 12g để sinh ra máu, làm tươi nhuận cho những mạch máu bị khô.
Đào nhân 6g, sao khô, bỏ vỏ, để phá vỡ những máu đã kết thành cục, lại có chất dầu xoa cho trơn nhuận.
Trần bì l2g, sao vàng, để tiêu nhớt, thông hơi và giúp sức tiêu hoá.
Hắc khương 4g (Gừng khô, tẩm nước tiểu, sao gần cháy đen ) để dẫn thuốc Khung và Quy vào sinh máu nóng cho tử cung.
Một dược 4g, nướng qua cho thơm để đánh tan, những máu đã kết thành cục.
Ngải diệp 8g, sao thơm để thông hơi máu trong tử cung cho thông hoạt.
Hương phụ 8g, sao vàng, để tiêu hơi máu và làm cho nóng ấm tử cung, bao tử.
Bạch truật 12g, sao vàng, để tăng sức mạnh cho bao tử.
Bạch linh 8g để thấm nước ra.
Tất cả đổ chung, sắc uống. Uống 2 thang, thấy bụng nhẹ, dễ chịu nhưng còn tiểu ít. Cho uống thêm 2 thang mỗi thang tăng Bạch linh lên thành 16g (biết rằng cần thấm lợi, nhưng xét ra cũng phải có chút ít ), thấy bụng nhẹ, tiêu hơi, dễ chịu, thèm ăn và có rỉ ra chút (ít ) huyết hôi, tiểu được nhiều, bớt phù, người nhẹ nhàng. Cho uống tiếp 4 thang nữa, bệnh khỏi hẳn.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn