Trong món ăn ghém hàng ngày, Diếp cá là một món rau không thể nào thiếu, nhất là ăn với bánh xèo, cá kho tộ …
Rau diếp cá
Diếp cá còn gọi là Giấp cá. Được đề cập trong Bản thảo cương mục (1596) của Lý Thời Trân ở Trung Quốc với tên gọi là Ngư tinh thảo, trong Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh (Hoà thượng Bản Lai khắc lại 1761) gọi là Ngư tinh thái, xếp vào loại rau. Đã được công nhận trong Dược điển Trung Quốc năm 1997 và Dược điển Việt Nam năm 1983. Cây được dùng theo kinh nghiệm dân gian, không được kể như một vị thuốc thường dùng trong những bài thuốc kinh điển của Đông y, nên trong tủ thuốc các Phòng chẩn tri Đông y thường không có sẵn vị thuốc này.
Tên khoa học là Houttuynia cordata Thunb., họ Saururaceae (họ Giấp cá). Trong họ thực vật này còn có một cây thuốc nữa là cây Hàm ếch (Saururus chinensis) ít dùng hơn.
Cây có nguồn gốc ở vùng châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á). Cây mọc hoang ở chổ ầm như sông, suối, nhưng phổ biến nhất là trồng như một loại rau để ăn chung với các loại rau sống khác trong bữa ăn hàng ngày, thường gặp ở miền Nam và miền Trung Việt Nam.
MÔ TẢ
Diếp cá là một loài cỏ sống được nhiều năm, cao khoảng 20 – 50cm, thân mềm nhỏ có màu xanh hay hơi nâu đỏ, toàn thân không có lông. Lá mọc cách, cuống dài, bìa láng, hình tim, trông giống như lá trầu nhưng nhỏ hơn. Hoa nhỏ màu trắng, có 4 cánh. Vò lá có mùi hăng, tanh tanh, nhai thấy chua chua.
CÔNG DỤNG
- Trị bệnh trĩ, lòi dom : Ra chợ đặt mua khoảng 1 rổ rau Diếp cá, đem về rửa sạch, cho vào nồi, đổ nước cho ngập hơn Diếp cá khoảng 3cm. Nấu còn chừng ½ nồi, vớt bỏ bả. Thêm vào 1 ký đường cát.
Nấu cho cạn xuống chừng 1,5 lít (chứa được trong 1 chai nước suối lớn). Để nguội, đổ vào chai nước suối 1,5 lít vừa kể, bỏ vảo tủ lạnh dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 muỗng canh.
Theo kinh nghiệm chúng tôi đã dùng cho nhiều bệnh nhân mắc bệnh trĩ thời gian đầu thì hiệu quả rất tốt.
Trong cách trị bệnh trĩ, việc củng cố thành mạch rất quan trọng, nên tác dụng trị liệu của Diếp cá là do chất 3-4 dioxyflavonol đã làm bền mao mạch.
Ngoài ra, một số công dụng khác được ghi trong sách thuốc và trong dân gian là :
- Dùng ngoài da trị chốc đầu, lở ghẻ, bệnh sởi, vết thương bị xây xát, sưng bầm, đau mắt . Nhai nhuốt nước trị đau họng, đau răng, viêm họng. Sách Duợc tính chỉ nam của Nguyễn Văn Minh có ghi “Người tự nhiên mất tiếng, dùng Diếp cá rửa sạch, nhai nát ngậm một đêm sáng mai nói được” : Takuo Kosuge 1952 nhận thấy cây có tác dụng kháng khuẩn. Sau này nhiều công trình nghiên cứu cũng xác nhận Diếp cá có tính kháng khuẩn với các chủng tụ cầu vàng, liên cầu, phế cầu, trực khuẩn bạch hầu, E. coli, trực khuẩn lỵ, Leptospira, vi nấm, virut cúm. Do đó, xưa kia ở miền Bắc Việt Nam, lúc chưa có thuốc trị đau mắt thông dụng và đặc hiệu như bây giờ, người dân khi bị đau mắt cũng dùng Diếp cá giã nát đắp lên mắt lúc đi ngủ, dùng gạc băng lại, dùng liên tiếp 2-3 ngày cũng có công hiệu.
- Thông tiểu : Ở Trung Quốc dùng Diếp cá để trị những bệnh nhân tiểu tiện khó, tiểu ít. Nghiên cứu thành phần hoá học và tác dụng dược lý thấy chất quercitrin + các chất vô cơ trong lá Diếp cá có tính lợi tiểu. Trong chăn nuôi, người dân hay dùng 100-500g Diếp cá (tùy con vật nuôi nhỏ hay lớn) cho ăn hoặc giã nát vắt lấy nước cho uống trị gia súc đái đục, đau, rát.
LIỀU DÙNG
Diếp cá thường dùng tươi 20-40g mỗi ngày. Ít được dùng như dược liệu khô, nếu dùng khô thì liều dùng từ 6 – 12g /ngày.
Tác giả bài viết: BSCKII HOÀNG THANH HIỀN - PGS.TS.LƯU THỊ HIỆP
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn