HUYẾT ÁP CAO
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ của Lý Văn Lượng, Trung Quốc)
Trần X, 53 tuổi. Bệnh viện chẩn đoán là huyết áp cao thể nguyên phát, lại bị loét đường cong lớn bao tử và hành tá tràng, viêm khớp do phong thấp. Huyết áp 200/ 130 - 140 mm Hg. Đã chữa nhiều loại thuốc Đông và Tây y nhưng không có kết quả. Phát hiện ra chứng huyết áp cao này từ hơn 5 năm, đầu váng, tay chân có lúc run rẩy mà không biết, khớp tay bên phải và 2 bên gót đau. Mặt xám, trong mắt có quầng của người cao tuổi, môi hơi tím tái, rêu lưỡi vàng mỏng lưỡi đỏ, miệng hôi. Ăn uống được, nhưng sau khi ăn no thì ợ hơi, bụng trên đau âm ỉ, đêm nằm mơ lung tung. Mạch tay trái Trầm Tế mà Sác, bên phải Hồng, Đợi mà Sác. Huyết áp lúc khám: 200/132mm Hg.
Chẩn đoán: Huyết áp cao do Can kinh nhiệt thịnh, đờm trọc ngăn trở ở trung tiêu.
Điều trị: Thanh Can, tức phong hoạt huyết, tá n ứ.
Dùng bài Bát Vị Giáng Áp Thang:
Đại giả thạch (tán nhỏ) 30g Hạ khô thảo 30g
Hoài ngưu tất 15g Mã đâu linh 30g
Phấn đơn bì 15g Tử đan sâm 30g
Song câu đằng 15g Thích tật lê l5g
Sắc uống ngày 1 thang. Uống được 8 thang, huyết áp hạ xuống còn 180/120mmHg. Bao tử hết bệnh, có cảm giác đói. Tuy nhiên, mồ hôi trán khá nhiều. Như vậy là người bện h vốn thể hư lại thêm huyết ứ, uất trệ đã lâu, lạc mạch không thông. Cho dùng bài thuốc trên, bỏ Đan sâm, Mã đâu linh, để tránh khổ hàn làm hại sinh khí của Tỳ Vị. Cho uống tiếp 6 thang, các triệu chứng đều chuyển biến tốt và rõ rệt, huyết áp hạ xuống còn 180/104 mmHg. Sau đó lấy bài Bát Vị Giáng Áp Thang làm chủ, gia giảm, uống tất cả 46 thang, huyết áp còn 160/90mmHg. Để củng cố tác dụng điều trị và trị cả gốc lẫn ngọn nhưng trị gốc là chính, cho dùng bài sau: Tử đan sâm 90g, Tang diệp 90g, Hắc chi ma 90g, Hạ khô thảo 180g, Đương quy 60g, Xuyên khung 30g, Hoàng kỳ 90g, Hà thủ ô 60g, Hoài ngưu tất 45g, để đề phòng huyết áp tái phát.
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ của Lý Văn Lượng, Trung Quốc)
Trương X, nam, 48 tuổi, bị huyết áp cao đã 2 năm, thường thấy đầu đau dữ dội, mất ngủ, hoa mắt, tay chân tê dại, có lúc nói khó, phản ứng chậm chạp, động tác chậm, uống nhiều loại thuốc hạ huyết áp nhưng không có hiệu qủa.
Khám thấy: Thân nhiệt 3608, huyết áp 190/110mmHg, thở 20 lần/phút, mạch đập 86 lần/phút. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch Huyền Họat.
Chẩn đoán: Phong đờm, thượng nghịch.
Điều trị: Trấn Can, tức phong, thanh nhiệt, hóa đờm. Dùng bài Tức Phong Giáng Áp Thang Gia Giảm:
Toàn phúc hoa 15g Toàn qua lâu 15g
Đại giả thạch 30g Lý thiên ma 15g
Thạch quyết minh 40g Ngô công 3 con
Trần đởm tinh 10g Toàn yết 8g
Ngưu giác tiêm 20g Câu đằng 15g
Bán hạ (chế ) 10g Ngưu tất 15g
Trân châu mẫu 25g
Sắc uống ngày 1 thang. Uống được 18 thang, khám thấy các triệu chứng hoàn toàn mất hết, huyết áp hạ xuống tới 140/95mmHg.
Cho dùng tiếp bài thuốc trên, bỏ bớt Thiên ma, Đởm tinh, Ngô công, Toàn yết, thêm Sa sâm l5g, Bách hợp 15g, Đương quy 30g. Uống liền 6 thang, huyết áp xuống còn 138/85 mmHg.
Hai tháng sau, hỏi lại, tình trạng tốt, chưa thấy huyết áp lên cao.
(Trích trong ‘Tạp Chí Đông Y’ số 1 l/ 1967, Việt Nam)
Đinh văn T, 52 tuổi, y sĩ viện mắt. Từ 7 năm nay thường bị đầu đau, mất ngủ, hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, mắt thấy nặng, trí nhớ kém, hay cáu gắt. Đã được điều trị như người bệnh thần kinh suy nhược tại bệnh viện Bạch Mai và điều trị viêm xoang tại bệnh viện Tai Mũi Họng. Nhưng các triệu chứng trên không giảm. Thường xuyên bị bón, đi tiểu không đẫy bãi, chân nặng, đái ít, khó thở, mạch 60 lần/phút. Chẩn đoán: Huyết áp cao chưa rõ nguyên nhân giai đoạn 2. Cho uống bài Thông U Cao:
Bố chính sâm Binh lang Thạch xương bồ
Tỳ giải Liên kiều Thổ phục linh
Đường kính Nga truật Trạch tả
Đào nhân Rễ cỏ xước Tang chi
Hoàng tinh Hồng hoa
Nấu đặc thành cao. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 ml. Sau 1 tuần, đo lại, huyết áp còn 145/90 mmHg, đầu đỡ nhức. Tiếp tục cho uống 1 tháng, huyết áp còn l30/80 mmHg, đầu nhẹ, người thoải mái, các triệu chứng giảm nhiều. Cho xuất viện.
(Trích trong ‘100 Y Án’ của Việt Cúc, Việt Nam)
Lâm Ngọc Ch, 37 tuổi, bệnh từ 3 năm nay. Lúc mới phát, không có chứng gì quan trọng lắm, chỉ có trong người mỏi, chân tay đi đứng hơi nặng nề, lưng đau, đầu nặng, mắt hoa, ngực hồi hộp, nhiều đêm khó ngủ, ngoài da hay ớn lạnh, sợ gió nhưng trong người nóng hầm, bệnh như vậy ít hôm rồi cũng bỏ qua, ít lâu lại tái phát, ăn uống kém, hơi thở ngắn và mệt. Đi khám bệnh, bác sĩ đo huyết áp hơi cao, cho uống và chích thuốc ít lâu cũng đỡ rồi thôi. Nhưng bệnh cứ dây dưa, lâu lâu lại tái phát, ăn uống suy kém, mất ngủ, vì vậy hình thể dần dần tiều tụy, đến nay hầu như kiệt sức. Hiện nay đau đớn như dần, nằm không muốn dậy, lừ đừ như muốn ngủ mà không phải ngủ, mở mắt ra thì choáng váng khó chịu, ngồi dậy, đầu cũng nặng căng, muốn gục, tại nổ lùng bùng, trong người rất mệt, trên 6, 7 tháng chích thuốc, uống thuốc Tây, thuốc bổ thận cố tinh đủ thứ, uống quá nhiều mà vẫn tiền mất tật mang, đêm khó ngủ mà hễ ngủ được thì mộng mị, tiết tinh, thức dậy mệt mỏi, không kể xiết.
Mạch Thận Trầm Vi, Tâm Can Huyền Đại, Phế Phù Sắc.
Chần đoán: Thận âm tinh huyết quá suy, hư hỏa vọng động xông đốt tâm, can. Tạng phủ đều thiếu âm huyết nhuận dưỡng, phong hỏa độc vương trên thượng tiêu gây ra các chứng xây xẩm, đầu nặng, mắt choáng không ngồi được hoặc nằm lì không dậy nổi, tâm hung nóng nẩy khó ngủ hoặc mơ màng. Rối loạn thần kinh, bên dưới, âm tinh không cố bế, tinh tiết lâu ngày thận tinh sẽ khô kiệt.
Điều trị: Tư âm, bổ thận, giáng hỏa, âm huyết được bổ sung, hư hỏa sẽ hạ và huyết áp cao sẽ khỏi.
Dây gùi 8g Đỗ trọng 8g Lạc tiên 8g
Hà thủ ô 8g Quyết minh tử 8g Khiếm thực 8g
Hoài sơn 8g Xa tiền tử 8g
Sắc uống ngày 1 thang. Uống 12 thang, khám lại, thấy mình bớt nóng, đầu mặt bớt choáng váng, hồi hộp giảm nhiều, mạch Tâm Can Huyền Hoãn, biết là phong hỏa đă giảm, cần điều bổ khí huyết, tư âm và ôn cố thận tinh.
Dùng phương trên, thêm Tục đọan 8g, Rễ cỏ xước 8g. Uống 10 thang.
Các chứng trên bớt, tinh thỉnh thoảng còn tiết theo đường tiểu vào buổi sáng sớm. Dùng bài trên thêm Ích trí 5g, Hạt sen 8g, Tiểu hồi 4g. Uống 10 thang, các chứng đều khỏi.
(Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ của Tôn Học Quyền)
Bệnh nhân Đồng, nam, 65 tuổi, công nhân hưu trí, nhập điều trị ngoại trú ngày 21/05/1979.
Bệnh nhân mắc bệnh tăng huyết áp đã 10 năm, huyết áp thường khoảng 160- 180/120- 130 mmhg kèm theo chóng mặt và thị lực kém. Bệnh trạng trở nên trầm trọng trong hai tháng cuối. Chóng mặt trở thành quá nặng đến nỗi bệnh nhân không thể chỗi dậy khỏi giường, buồn ngủ dữ dội khiến cho ông ta ngủ ngay trong giờ ăn, không thể dùng 500g bánh mì hấp trong một bữa ăn và có cảm giác yếu mệt và sưng phù toàn thân.
Khám thấy áp huyết 210/160 mmhg, mặt hơi đỏ và phù toàn thân, mạch Huyền.
Chẩn đoán là huyết áp cao.
Điều trị: Dùng Đầu Châm. Châm vùng Chóng mặt và Nghe, 1/5 trên của vùng Vận động, Cảm giác chân và vùng Dãn mạch, Co mạch, Lưu kim trong hai giờ. Cách ngày châm một lần.
Khám lần thứ hai vào ngày 30/05/1979 thấy: huyết áp 180/130mmHg, các triệu chứng bao gồm cả chóng mặt đều giảm và bệnh nhân đã có thể tự mình đến dưỡng đường.
Châm như trên.
Khám lần thứ ba vào ngày 10/06/1979 xác định: huyết áp 160/120mmhg, chóng mặt đã giảm một cách rõ rệt, chứng thèm ăn quá mức đã giảm một cách đáng kể, và chứng phù đã giảm hoàn toàn và có thể làm việc chút ít.
Châm như cũ. Khám lần thứ tư được hoãn lại đến ngày 17/06/1979. Khám thấy: áp huyết 195/148 mmhg, chóng mặt nặng hơn một chút và chứng thèm ăn cũng tăng dần đôi chút. Châm theo phương huyệt I mỗi ngày một lần cho đến ngày 26/07/1979.
Đo lại thấy áp huyết là 160/120 mmhg, không còn một triệu chứng nào hiện diện. Châm lần cuối rồi ngừng điều trị. Sáu tháng sau, bệnh nhân trở lại dưỡng đường để kiểm tra, áp huyết đã ổn định.
(Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ của Tôn Học Quyền)
Bệnh nhân Mạnh, nữ, 44 tuổi, giáo viên, nhập điều trị ngoại trú ngày 03/03/ 1979.
Bị cao huyết áp đã 3 năm, áp huyết tăng trong khoảng 180/120 mmhg, chóng mặt, khó ngủ, kích động, ngón tay chân tê, cảm giác tức và nặng trên đỉnh đầu, ấn vào thì đỡ.
Thăm khám: Cơ thể gầy yếu, có vẻ đau đớn, áp huyết cao 180/130 mmhg.
Chẩn đoán tăng huyết áp.
Điều trị: Châm 3 huyệt ở đỉnh đầu là Thượng tinh (XIII.23), Bách hội (XIII.20) hoặc Đầu duy (III.8), lưu kim khoảng 2 giờ và dùng huyệt An miên II làm huyệt hỗ trợ. Bệnh nhân cảm thấy giảm chóng mặt và toàn thân khỏe hơn ngay sau khi châm.
Khám lần thứ hai vào ngày 5/3/1979 thấy áp huyết còn 160/100 mmhg, ngủ nhiều hơn, chóng mặt đã giảm. Châm như cũ.
Khám lần thứ ba vào ngày 10/03/1979 : áp huyết 130/80 mmhg. Hết hẳn chóng mặt, đỉnh đầu hết căng tức, những triệu chứng khác cũng đỡ nhiều. Châm các huyệt Bách hội (XIII 20), An miên II và Nội quan (IX 6), vê và lưu kim 30 phút.
3 ngày châm một lần. Châm như trên tổng cộng 5 lần để củng cố hiệu quả trị liệu.
(Trích trong sách ‘Châm Cứu Lâm Chứng Thực Nghiệm’ của Tôn Học Quyền)
Bệnh nhân Gia, nữ, 45 tuổi, giáo viên. Khám lần đầu ngày l0/06/1979.
Bệnh nhân bị chóng mặt, mờ mắt và không thể đứng dậy được. Thăm khám cho thấy cô ta béo phì, mặt hơi đỏ, tiếng nói chói tai và mạnh, áp huyết 190/130 mmhg, mạch Huyền Sác Chẩn đoán: Táng huyết áp.
Điều trị: Châm hai bên cột sống phía sau cổ bằng hai kim, xoay kim không định hướng mỗi 10 phút một lần, lưu kim 30 phút. Bệnh nhân cảm thấy giảm chóng mặt một cách dáng kể ngay sau khi rút kim và áp huyết giảm còn 180/125 mmhg.
Sau 5 lần châm áp huyết giảm còn 135/90 mmhg và các tricu chúng mất hẳn. Một năm sau bệnh
nhân trở lại để kiểm tra: nhận thấy áp huyết giữ ở mức l30 - 140/90 - 100 mmlhg.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn