Thiên ‘Thích Tiết Chân Tà’ (LKhu.75, 4-8) nêu lên phương pháp châm Ngũ Tiết:
1-Chấn Ai: châm cạn ngoài kinh mạch để đuổi dương tà của bệnh, trij những chứng do dương khí đại nghịch lên: tích đầy trong lồng ngực làm cho ngực bị đầy, phải co vai lại để thở, phát suyễn thở khò khè, chỉ ngồi gục xuống chứ không thể nằm yên. Dùng phép chữa này phải thật nhanh như quét dọn cho sạch bụi (Chấn ai) - Dùng huyệt Thiên Dung.
2-Phát Mông: châm các Du huyệt thuộc dương, thuộc phủ, để trị các bệnh thuộc Lục phủ. Trị tai không nghe gì, mắt không thấy gì... Hiệu qủa của phương pháp này còn nhanh hơn là quét sạch bụi che cho sáng mắt. Khi mũi kim vừa châm vào, dặn bệnh nhân dùng tay bịt kín 2 lỗ mũi, đồng thời ngậm kín miệng lại, không cho tiếng nói phát ra. Kết quả sẽ ứng với mũi kim châm, tai sẽ nghe được âm thanh.
3-Khứ Trảo: châm chủ yếu về các quan tiết và chi lạc.. Dùng Phi Châm để trị...Đây là phép châm trị 1 thứ bệnh của loại có hình dáng như dương vật, dịch hoàn thường không che dấu được, giống như cắt bỏ dần chỗ dư của móng tay, vì vậy gọi là Khứ Trảo.
4-Triệt Y: châm trên các kỳ huyệt trên các vùng dương phận... Dùng các huyệt: Thiên Phủ, Đại Trữ. Châm 3 lần. Châm thêm huyệt Trung Lữ Du để đẩy lùi nhiệt tà. Ngoài ra còn châm bổ kinh túc Thái âm Tỳ và thủ Thái âm Phế, để làm giảm nhiệt bằng cách ra mồ hôi. Khi nhiệt giảm, mồ hôi giảm ít lại thì bệnh sẽ khỏi nhanh như cởi áo [triệt y] vậy.
5- Giải Hoặc: là phép châm mà phải biết rõ việc điều hòa Âm Dương, biết tả cái hữu dư, bổ cái bất túc, thay đổi việc hư thực trở lại bình thường... Châm tả cái hữu dư của tà khí, châm bổ cái bất túc của chính khí và điều hòa quan bình Âm Dương. Người dùng châm được như vậy thì kết quả nhanh hơn giải được cơn mê hoặc vây.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn