MẠCH NGHỊCH
(Trích trong ‘Danh Y Loại Án’).
Con gái họ Hứa, bị ho thổ huyết, mời Lý Sĩ Tài đến thăm bệnh. Oâng đến thăm mạch ngày tháng sáu, thấy hai bộ xích ứng hiện như tơ mủn, hai bộ thốn Đợ và Sác. Ông bảo : “Kim bị hoả hình”. Mạch Phế đáng lẽ Phù, Sáp nay trái lại là Hồng, Đợi, đó gọi là tặc mạch (sách Mạch Kinh ghi: Phế phản đắc Hồng Đợi, Tâm thừa Phế, Hoả khắc kim, vi tặc tà đại nghịch, bất trị, kỵ Bính Đinh nhật”). Bệnh này sang mùa thu rất đáng lo lắm.
Ngày 5 tháng 8 lại mời ông đến thăm mạch nữa. Ông thấy mạch Phế nguyên trước đây Hồng, Đợi mà nay biến hiện Tế. Sác, mạch Thận nguyên trước Nhuyễn Nhược, nay biến hiện Tật, cứng. Ông thấy mạch đi như vậy mới nói với người nhà rằng: Năm nay là năm Mậu Ngọ, khí Thiếu âm tư thiên, hai mạch xích đáng lẽ không ứng, nay trái lại mạch xích ứng Đợi, còn mạch Thận đáng lẽ Đợi, lại ứng Trầm Tế. Sách Nội Kinh ghi: “Xích thốn phản giả tử” (Mạch bộ xích, thốn ứng hiện trái bộ vị thì bệnh chết). Mạch Phế đã ứng Huyền tuyệt (chân tạng cô Huyền mà không có Vị khí) thì trong 12 ngày phải chết. Tính cho đúng kỳ thì chết nhằm ngày 16. Nhưng sách Nội Kinh cũng có nói: Năng thực quá kỳ (người bệnh ăn uống được có thể sống quá kỳ hạn). Huống hồ ngày 16, 17 đều là hai ngày Kim, thế thì chưa đến nỗi tuyệt, ngày 18 là ngày giao tiết hàn lộ, lại gặp hoả. Sách Nội Kinh ghi: “Thái âm khí tuyệt, Bính nhật độc, Đinh nhật tử” (Khí Thái âm Phế tuyệt, gặp ngày Bính thì nặng hơn, gặp ngày Đinh thì chết), đó là nói đến ngày hoả. Trong 1 ngày, giờ Dần ( 3 – 5 giờ) là giờ khí huyết lưu chú ở Phế, nếu khí huyết không lưu chú nữa thì mạch tuyệt. Như vậy bệnh này chắc chắn sẽ chết vào ngày 18, giờ Dần.
Chủ nhà thấy người bệnh còn ăn uống được, không tin. Về sau, đến ngày 18, trời chưa hừng sáng, người bệnh đó chết.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn