TIM ĐẬP NHANH
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ của Lý Văn Lượng, Trung Quốc)
Trương X, nam, 40 tuổi. Bệnh đã hơn một năm. Chứng trạng chủ yếu là tim đập nhanh, thở dốc, mất ngủ, hay quên, u uất, hoa mắt, mệt nhọc, mặt xanh bệch, gò má đỏ, người gầy gò, vẻ ngoài buồn khổ, không yên, môi lưỡi nhạt, lưỡi không rêu, thở gấp, mạch Cấp Sác, không lực, đập 130 lần/phút. Đây là chứng âm suy dương phù, Tâm Thận bất giao, tim hồi hộp.
Điều trị: Ích tinh, bổ Thận, ích khí, sinh huyết, dưỡng Tâm, an thần.
Dùng bài Bát Vị An Thần Hoàn Gia Vị:
Thục địa l5g Sao táo nhân 30g
Sơn thù nhục 15g Phục thần 15g
Bạch nhân sâm 12g Đương quy 12g
Hổ phách 12g Chích cam thảo 9g
Nhục thung dung 12g Câu kỷ l5g
Long cốt 30g Cửu tiết xương bồ 12g
Tán bột, tất cả, luyện mật làm hoàn, mỗi hoàn 9g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 hoàn. Uống hết 1 liều, tim đỡ hồi hộp, mạch chuyển sang Hoãn Hoạt, mỗi phút giảm còn 94 lần. Uống hết 2 liều, các triệu chứng đều hết.
Người bệnh này bị chứng tim đập nhanh, là Thận âm suy tổn, không thể giúp cho tim, âm dương không giao nhau, thần không giữ yên chỗ, như ông Lưu Hà Gian đã nói : "Thủy suy hỏa vượng, tâm hung táo động" là nghĩa như vậy. Vì thận âm suy tổn, âm dương hỗ căn mất sự điều hòa, dương hư vượt lên, làm rối loạn tâm thần sinh ra hoa mắt, tim đập hồi hộp, mất ngủ, hay quên, u sầu. Thận âm không thể lên giúp đỡ Tâm dương, Tâm dương độc cuồng thì chắc chắn Tâm âm bị hại. Tâm khí bị tổn thương làm cho mạch chạy nhanh (Cấp Sác), không lực.
Điều trị: Phải dùng Thục địa, Thù nhục, Câu kỷ, Nhục thung dung, lấy vị ngọt chua, mang tính ấm, bình mà tư âm, ích tinh, để bổ Thận; Đương quy, Nhân sâm bổ huyết, ích khí để dưỡng Tâm; Long cốt, Táo nhân, Xương bồ, Hổ phách vị ngọt, chua, hơi cay, tính bình để dưỡng Tâm, an thần. Thận âm mà đủ, ở trên, đối với chứng bệnh tim do Thận âm suy tổn là thuộc loại hư mà "hư thì phải bổ", tuy nhiên, dương hư vượt lên là do âm thiếu không thể kìm dương lại.
Điều trị: Phải dùng các thuốc ngọt, ấm tính bình, có tác dụng tư âm, ích tinh, bổ Thận, thêm các thuốc dưỡng tâm an thần, âm đủ thì dương bình mà thần yên.
(Trích trong ‘Châm Cứu Bách Bệnh Thực Dụng Nghiệm Phương’ của Thẩm Tá Đình – Trung Quốc)
Nhậm Chí Vinh, 31 tuổi, ngụ ở Trùng Khánh. Đầu gối chân bên phải tê, đau, cứng không co lại được. Bệnh đã hơn một năm, tim đập nhanh, hông sườn bên trái đau, toàn thân, xương khớp đều đau, kèm ho có đờm.
Điều trị: Châm huyệt Thái bạch, Tam âm giao, Ủy trung, Hoàn khiêu.
Kết quả: Châm xong về nhà thì đi tiêu trên 10 lần, nôn ra nhiều đờm nước. Nôn rồi thì vùng tim và phía hông sườn trái hết đau, cơ thể hết đau nhức. Ngày hôm sau đầu gối hết đau, co duỗi bình thường.
Giải thích: Bệnh này do đờm bế ngăn nghẹn làm cho tim đập nhanh và hông sườn đau, đầu gối cứng. Trị dùng phép đại bổ Tỳ thổ, huyệt Thái bạch, Tam âm giao, như vậy là lấy Thổ khắc Thủy, do đó mà nôn ra đờm, nước và tiêu chảy, các chứng đều hết (Châm Cứu Bách Bệnh Thực Dụng Nghiệm Phương).
(Trích trong ‘Châm Cứu Bách Bệnh Thực Dụng Nghiệm Phương’ của Thẩm Tá Đình – Trung Quốc)
Thủ Hùng, nữ, 43 tuổi. Tim thường đập mạnh, vùng mỏm tim đau. Bệnh đã 20 năm, khi đau thường gây nên nôn mửa ra nước trong.
Điều trị: Châm huyệt Thượng quản, vê kim tả 3 lần.
Kết quả: Châm xong, tim hết đập mạnh và hết đau.
Giải thích: Hỏa sinh Thổ, vùng tâm khẩu tức phía trên dạ dầy bị tà khí xâm nhập, vùng đó cũng liên hệ đến tim, vì vậy gây nên tim đau, tim đập mạnh, đó là Tâm bị thực sinh nên bệnh, do đó, châm tả huyệt Thượng quản theo nguyên tắc ‘thực tả tử’, khỏi bệnh (Châm Cứu Bách Bệnh Thực Dụng Nghiệm Phương).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn