Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập của đất nước, thực hiện chiến lược phát triển Y dược học cổ truyền đến năm 2010 của Thủ Tướng Chính phủ. Ngành Châm cứu Việt Nam đã có một bước phát triển mạnh mẽ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ta và được nhân dân thế giới đều tin yêu ca ngợi.
Châm cứu là một trong những phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh cổ nhất, đơn giản nhất của Y học cổ truyền Việt Nam. Nó ra đời trước phương pháp chữa bệnh bằng dược liệu. Châm là dùng đá mài nhọn (Biếm thạch) hay kim (sau này) châm vào huyệt, cứu là dùng ngải ( mồi ngải hay điếu ngải) đốt cháy gây sức nóng trên Huyệt. Phương pháp này đã được truyền bá từ lâu tới nhiều nước Phương Đông, đã tiếp tục phát triển, tổng hợp lý luận cũng như kinh nghiệm viết lên sách Linh Khu thời (770-221 trước công nguyên), đó là sách châm cứu đầu tiên của loài người. Biển Thước viết Nạn Kinh năm 282 trước công nguyên, Hoàng Phủ Bật viết Châm Cứu Giáp Ất Kinh vào thế kỷ thứ 03 sau công nguyên, năm 309 sau công nguyên Trung Quốc có nêu tên nhà nữ Y châm cứu là Bảo Cô, chữa khỏi nhiều bệnh cho nhân dân ở Nam Hải, viết sách "Cửu Hậu Bị Cấp Phương" chữa 73 loại bệnh với 109 công thức chữa bệnh bằng Châm cứu, nước ta được thừa kế nền y thuật đặc biệt này và phát huy phát triển đến ngày nay.
I. Một số nét về lịch sử Châm cứu Việt Nam.
Ở nước ta, Châm cứu được sử dụng lâu đời, sử sách đã ghi từ thời Hùng Vương đã có An Kỳ Sinh( người Đông Triều) châm cứu giỏi, chữa khỏi bệnh cho Thôi Văn Tử, từ thế kỷ thứ II trước công nguyên đời Thục An Dương Vương, danh y Thôi Vỹ đã làm rạng rỡ cho y thuật Châm cứu thời bấy giờ, đã chữa khỏi bệnh cho Ứng Huyền và Nhâm Hiệu ( trích truyện Lĩnh Nam Trích Quái), sách Lê Quý Đôn - Việt Nam có viết: Vào thế kỷ thứ III, nước ta có nhà nữ châm cứu Việt Nam là Bảo Cô chữa khỏi nhiều bệnh cho nhân dân ở Nam Hải, Đời Nhà Lý (thế kỷ 11) có Khổng Minh Không Thiền Sư Nguyễn Chí Thành ở Sơn Nam (Hà Nam Ninh) chữa khỏi bệnh cho Vua Lý Thần Tông bằng châm cứu.
Đến thế kỷ thứ 14 danh y Trâu Canh cứu sống Hoàng Tử Hạo chết đuối bằng phương pháp Châm cứu. Sau này Hoàng Tử Hạo là Vua Trần Dụ Tông.
Tuệ Tĩnh, Ông sinh vào thời nhà Trần (1225 – 1399), Năm 22 tuổi thi đậu Thái học sinh dưới triều Trần Dụ Tông, niên hiệu Thiệu Phong thứ 11(1351) nhưng không ra làm quan. Ông chuyên tâm nghiên cứu y thuật, đặc biệt Châm cứu Ông ghi chép việc dùng Châm cứu chữa một số bệnh trong bộ Hồng Nghĩa Giác Y Thư và Bộ Nam Dược Thần Hiệu.
Đến thế kỷ thứ 15 đời nhà Hồ, Danh Y Nguyễn Đại Năng phụ trách Quảng tế thự, soạn bộ (Châm cứu tiệp hiệu diễn ca), và Nguyễn Trực dùng phép ấn, nắn, cứu huyệt để chữa bệnh cho trẻ em ( Bảo Anh Lương Phương)
Thế kỷ thứ 17 Lý Công Tuân viết Châm Cứu Thủ Huyệt Đồ và Châm Cứu Tiệp Hiệu Pháp bằng chữ nôm đã mở ra một thời thừa kế, và phát triển châm cứu.
Thế kỷ thứ 18 Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác trong bộ Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh có sử dụng châm cứu chữa một số bệnh về nhi khoa.
Thế kỷ 20 Vũ Bình Phố viết bộ ( Y Thư Lược Sao) bằng chữ Hán có nói về Châm cứu.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, nền châm cứu nước ta tuy bị coi rẽ, nhưng cũng có những thầy thuốc tây y và đông y làm châm cứu. Hình thức phổ biến trong nhân dân được chia ra 03 vùng miền khác nhau như: Miền Trung (Miền xuôi) là dùng chích lễ và cứu (chữa những bệnh như tràng nhạc, cứu bỏng chữa các bệnh kinh niên mãn tính như phong thấp, tê bại...); ở miền Bắc là phương pháp đốt bất đèn, ở miền Nam là phương pháp nhể (Bầu, giác hơi?), hay chích lể là thịnh hành trong nhân dân.
Sau cách mạng tháng 08/1945 nhất là sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954 cũng như một số di sản khác, nền y thuật Châm cứu được Đảng, Chính phủ coi đó là vốn quý của dân tộc ta cần thừa kế, phát huy, và phát triển để phục vụ công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Ngoài phương pháp, các phương pháp Châm cứu theo cổ điển, còn những phương pháp khác như gõ kim hoa mai, châm loa tai (nhĩ châm), tiêm thuốc vào huyệt (Thủy châm), châm điện, nhu châm ... cũng được áp dụng rộng rãi.
Tóm lại, châm cứu đã được nhân dân ta sử dụng từ lâu, cùng với thuốc Nam thuốc Bắc và trãi dài xuyên suốt, qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sự nghiệp của Châm cứu không ngừng phát triển từng ngày trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, qua các thăng trầm lịch sử dân tộc, góp phần cùng ngành y tế trong nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ, và nâng cao sức khỏe của nhân dân.
II. Hội Châm Cứu Việt Nam
Hội Châm Cứu Việt Nam được thành lập năm 1967, trong 41 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, đất nước ta đã có những bước tiến đặc biệt về mọi mặt trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó Châm cứu Việt Nam luôn phấn đấu trưởng thành mạnh mẽ.
Tháng 10/1967 Đại Hội I của Trung ương Hội Châm Cứu Việt Nam nhằm thống kê và tập hợp lực lượng châm cứu, thông qua điều lệ Hội trình chính phủ xin phép được thành lập.
Ngày 30/12/1968 được ủy nhiệm của Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ Nội Vụ ra quyết định số 741/NV cho phép thành lập Hội Châm Cúu Việt Nam và công nhận điều lệ I của Hội. Lương Y. Đặng Văn Cáp được bầu làm Chủ Tịch Hội.
Đại Hội II năm 1978: Đất nước ta đã thống nhất, Đại Hội ra nghị quyết về phát triển tổ chức Hội trên phạm vi cả nước. Lương Y Đặng Văn Cáp được bầu làm Chủ tịch Hội.
Đại Hội III năm 1985: Tiếp tục củng cố và phát triển Hội sau khi Viện Châm cứu được thành lập ( tháng 4/1982) phát triển quan hệ quốc tế của Hội trên toàn thế giới và thông qua điều lệ Hội có sửa đổi bổ sung. GS. Nguyễn Tài Thu được bầu làm Chủ tịch Hội Châm Cứu Việt Nam.
Đại Hội IV năm 1991: Thành lập Hội ở các tỉnh mới tách, củng cố phát triển Hội ở các Tỉnh, Thành đã có tổ chức Hội. Đồng thời mỡ rộng quan hệ quốc tế: Hội Châm Cứu Việt Nam Nam gia nhập Liên hiệp hội Châm cứu thế giới ( WFAS). Đại hội thống nhất tiếp tục bầu GS. Nguyễn Tài Thu làm Chủ tịch Hội.
Đại Hội V năm 1997: Nghị Quyết Đại Hội nhấn mạnh " Từng bước thực hiện xã hội hóa và hiện đại hóa ngành Châm cứu Việt Nam, phát huy vai trò Châm cứu Việt Nam trên trường quốc tế"
Đại hội V đã bầu BCH TƯ Hội khóa V gồm 81 vị, GS Nguyễn Tài Thu được bầu lại lần thứ 3 là Chủ tịch Hội. Sau Đại Hội V ngày 30/12/1997, Tổng Hội Y Dược Học Việt Nam ra quyết định 273/TH chấp thuận cho Hội Châm Cứu Việt Nam ra khỏi Tổng hội đánh dấu bước ngoặc vững vàng cho ngành Châm cứu Việt Nam đối với y học Việt Nam và thế giới.
Ngày 18/01/1998, Ủy Ban TƯ Mặt Trận TQ Việt Nam ra quyết định số 30/MTTQW công nhận Hội Châm Cứu Việt Nam là thành viên chính thức của Mặt trận, GS. Nguyễn Tài Thu được bổ sung là Ủy Viên UBTW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Ngày 19/03/1998, Ban tổ chức cán bộ chính phủ ra quyết định số 85/TCCP-TC công nhận Điều lệ V của Hội Châm Cứu Việt Nam.
Đại Hội VI ngày 26/12/2002 GS. Nguyễn Tài Thu được bầu lại lần thứ 4 là Chủ tịch Hội. Một chặng đường lịch sử của Hội Châm Cứu Việt Nam đã được GS Nguyễn Tài Thu cống hiến, và phát huy thật rạng rỡ cho ngành Châm Cứu nước nhà, những thành quả đó đã được Đảng và nhà nước ta ghi nhận và tặng những phần thưởng cao quý như:
- Huân chương Lao động hạn III do Chủ tịch nước trao tặng
- Bằng Khen và cờ do Ủy Ban TW Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam trao tặng.
- GS. Nguyễn Tài Thu được phong tặng danh hiệu Thầy thuốc nhân dân (1995), Huân Chương Lao động hạng nhất (1999), Anh Hùng Lao Động thời kỳ đổi mới (2000) và các giải thưởng khác về khoa học và công nghệ.
Vai trò của Hội Châm Cứu Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trong phong trào châm cứu quốc tế, tác dụng của châm cứu Việt Nam đã thiết thực chăm sóc sức khỏe cho nhân dân Việt Nam, nhất là công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ta ở vùng sâu, vùng xa, những gia đình nghèo thuộc diện chính sách của xã hội. Trãi qua thực tiễn với hàng ngàn năm lịch sử, tổ tiên ta từ đời này sang đời khác đã tích lũy một kho tàng kinh nghiệm phong phú trên lâm sàng, xây dựng được một lý luận đặc sắc của phương đông. Hệ thống của lý luận này rất toàn diện giải thích được những biểu hiện sinh lý và hiện tượng bệnh lý của con người, gắn liền với học thuyết lâu đời của y học phương Đông như Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết Kinh Lạc, học thuyết Tạng Phủ, học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất... Hệ thống lý luận này đã phát triển từ đời này qua đời khác, kết hợp với thực tiển lâm sàng, xây dựng thành các pho sách y học phương Đông như: Hoàng đế Nội Kinh, Nạn Kinh, Châm Cứu Tiệp Hiệu Diễn Ca, Nam Dược Thần Hiệu, Hồng Nghĩa Giác Y Thư, Y Tôn Tâm Lĩnh...
Với thời cổ đại, một số kiến thức về y học còn hạn chế, những máy móc phục vụ công tác khám chữa bệnh (KCB) còn hạn chế, hoặc chưa có, nên nhiều vấn đề trong chẩn đoán, trong bệnh học chưa có điều kiện phát huy. Ngày nay với chủ trương và chiến lược giáo dục của Đảng, với chiến lược phát triển Y học cổ truyền đến năm 2010 của Thủ Tướng Chính Phủ, ngành Châm cứu đã và đang phấn đấu phát triển Châm cứu theo định hướng phối hợp giữa Y học cổ truyền và Y học hiện đại mà vẩn giữ được bản sắc của dân tộc, phục vụ tốt hơn nữa, trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân.
II. Hội Châm cứu tỉnh Thừa Thiên Huế
Hội Châm Cứu tỉnh Thừa Thiên Huế là đơn vị thành viên, trong những năm qua đã kiện toàn được tổ chức Hội, tham gia khám chữa bệnh(KCB) nhân đạo cho đồng bào ta ở vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác Hội mà Nghị Quyết Đại Hội VI của Trung ương Hội Châm Cứu Việt Nam đã thông qua.
Hội được thành lập theo quyết định số 245UB/VX ngày 13 tháng 04 năm 1992 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội đã trãi qua IV nhiệm kỳ Đại hội, nhiệm kỳ I Đại hội bầu BS.Trương Tiềm làm Chủ tịch Hội và chính thức tập hợp đoàn kết các thầy thuốc hành nghề châm cứu trong toàn tỉnh và số Hội viên tham gia vào Hội trên 150 HV toàn tỉnh, Đại hội II đã nhất trí bầu BS. Trương Tiềm làm Chủ tịch Hội, số Hội viên tham gia trên 180 HV, Đại hội III(2003) đã bầu BS.Nguyễn Thị Đang làm Chủ tịch Hội, số Hội viên trên 200 HV toàn tỉnh, nhiệm kỳ III đã thành lập các Chi Hội trực thuộc, như Chi Hội Châm cứu Nguyễn Đại Năng, Chi Hội Tuệ Tĩnh Đương Liên Hoa, Chi Hội Thành Phố Huế, các Chi hội này là tiền thân của các Huyện Thành Hội sau này.
Đại Hội IV(2007-20012) đã bầu BS. Đặng Thị Mai Hoa làm Chủ tịch Hội kiện toàn được vai trò của Ban chấp hành (BCH) tổng số gồm có 27 vị. Ban thường vụ có 09 vị. Có 01Chủ tịch và 02 phó Chủ tịch kiêm nhiệm (Trong năm 2007 đã bổ sung thêm). Đã kiện toàn lại tổ chức, phân công, phân nhiệm hợp lý và duy trì sinh hoạt định kỳ đều đặn để triển khai các mặt công tác của Hội. Hội Châm Cứu TT- Huế đã được kết nạp là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tỉnh TT-Huế năm 2007. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội IV và kế hoạch công tác Hội năm 2007, BCH tỉnh Hội đã thực hiện được các thành quả như sau:
Hội đã tuyên truyền giáo dục cán bộ hội viên chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy chế của ngành Y tế. Giáo dục truyền thống châm cứu đã có từ nghìn xưa của nước nhà, quan tâm xây dựng tổ chức và mạng lưới của Hội ngày càng vững mạnh, đạt được kết quả khả quan. Sự phối hợp giữa Hội Châm Cứu với Sở Y tế, giữa Hội với Bệnh viện YHCT của Tỉnh và Hội Đông Y ngày càng gắn bó mật thiết hơn. Kiện toàn tổ chức 9/9 Huyện/Thành hội và 04 Chi hội trực thuộc, một số đơn vị đã tiến hành Đại Hội trong năm 2007 như: Hội Châm Cứu Thành Phố Huế tháng 06/2007, BCH gồm 15 vị; Hội Châm Cứu huyện Hương Trà tháng 08/2007, BCH gồm 05 vị.
Thực hiện “Chính sách Quốc gia về Y dược học cổ truyền đến năm 2010” của tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội Châm Cứu đã phối hợp với Sở Y tế thành lập Trung tâm Thừa kế Ứng dụng YHCT Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa số 03 Lê Quý Đôn TP Huế trực thuộc Hội Châm Cứu tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tỉnh hội đã chỉ đạo, phối hợp các Huyện Hội/Thành Hội, các đơn vị trực thuộc, Trung Tâm Kế Thừa Ứng Dụng YHCT Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa, vận động trong đông đảo Hội viên và các nhà hảo tâm lập quỹ khám chữa bệnh nhân đạo, trong năm 2007 đã quyên góp được 119.577.000 đồng và đã tổ chức các đợt khám chữa bệnh, châm cứu, cấp phát thuốc miễn phí cho đồng bào trong tỉnh ta nhân các ngày kỷ niệm lễ lớn tại các xã vùng sâu vùng xa như: Phong Xuân, Phong Mỹ (Phong Điền) Hồng Kim (A lưới) Thủy Tân (Hương Thủy)... với tổng số bệnh nhân được khám và cấp phát thuốc là: 3.473 BN.
Ngoài khám chữa bệnh từ thiện ngoại viện Trung Tâm Kế Thừa Ứng Dụng Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa là một đơn vị đã đóng góp to lớn trong công tác chăm sóc sức khỏe miễn phí cho nhân dân tại cơ sở với kết quả: Tổng số bệnh nhân khám bệnh: 35.006 bệnh nhân, Số BN Châm cứu: 33.307 bệnh nhân, Số lượng thuốc thang tiêu thụ là: 5.808 kg, thuốc hoàn là: 2.444 kg; Tổng số tiền miễn phí cho người nghèo là: 32.875.000đ
Nhìn chung với các hoạt động như KCB nhân đạo, Đào tạo bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên cho Hội viên, tuyên truyền đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước đến Hội viên ở cấp cơ sở, và kiện toàn tổ chức các Huyện/ Thành hội cùng hướng tới đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, hội nghị khoa học và tâm đắc kế thừa là môi trường thuận lợi cho Hội viên được trao đổi kinh nghiệm trong điều trị bệnh bằng Châm cứu, kết hợp với các phương pháp dùng thuốc, phối hợp giữa YHCT và YHHĐ nhằm đáp ứng nhu cầu KCB chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, từng bước xã hội hóa, hiện đại hóa Châm cứu trong nhân dân, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, cùng ngành y tế thực hiện thành công chiến lược phát triển YHCT đến năm 2010 trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn