Từ cổ xưa chứng liệt mặt đã được mô tả trong các y văn của người La Mã. Năm 600, Paulus Acginata mô tả chi tiết liệt lông mày và là người đầu tiên khâu sụn mi trong liệt mặt.

Hình minh họa.
I. Đặt vấn đềLiệt dây thần kinh (dtk) VII ngoại biên là một bệnh gặp tương đối phổ biến trên lâm sàng, chiếm 2,95% bệnh thần kinh (Hồ Hữu Lương, Nguyễn Văn Chương, Cao Hữu Hân, 2003), 23/100.000 người/năm (Các nguyên lý y học nội khoa Harrison, tập 5, tài liệu dịch, trang 204), thường gặp ở mùa đông xuân và ở mọi lứa tuổi. Nguyên nhân thường do lạnh, nhiễm trùng, chấn thương khối u hoặc các rối loạn trong xương đá trong đó nguyên nhân do lạnh chiếm 80% (Nội khoa cơ sở, tập 1, 2004).
Từ cổ xưa chứng liệt mặt đã được mô tả trong các y văn của người La Mã. Năm 600, Paulus Acginata mô tả chi tiết liệt lông mày và là người đầu tiên khâu sụn mi trong liệt mặt. Năm 1972, Frank là người đầu tiên mô tả chính xác liệt mặt. Sau đó, 1852 Charles Bell đã hiệu đính lại những điểm mấu chốt. Năm 1835, Bernad nhấn mạnh vai trò của sự nhiễm lạnh trong liệt mặt và ông là người đầu tiên nhận định liệt mặt là do cơ chế thắt nghẹt dtk trong ống xương, ông cho rằng sự rối loạn tuần hoàn của mạch nuôi thần kinh VII trong cống Fallope đóng vai trò quan trọng trong bệnh lý này. Bệnh không đe dọa đến mạng sống của bệnh nhân nhưng gây ảnh hưởng đến một số hoạt động thường ngày như: nhai khó bên liệt, ăn uống bị đổ ra ngoài, mắt không nhắm được, dễ gây các bệnh về mắt mỗi khi có kích thích tác động, và điều quan trọng là làm mất thẩm mỹ khuôn mặt nên bệnh nhân thường đến khám chữa bệnh rất sớm, và đây là một điều kiện thuận lợi cho thầy thuốc trong quá trình đánh giá hiệu quả điều trị.
Về phương diện điều trị liệt VII ngoại biên do lạnh, Y học hiện đại đã áp dụng các phương pháp: chiếu tia hồng ngoại hoặc sóng ngắn, thuốc corticod và vitamin, phẫu thuật… Nhược điểm của phương pháp này là giá thành cao, đặc biệt corticoid có ảnh hưởng tới dạ dày, gan, thận, xương, huyết áp… Vì thể, Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo cần nghiên cứu sử dụng các phương pháp Y học cổ truyền trong điều trị để vừa hạ giá thành vừa tránh được tai biến do dùng thuốc.
Đông y có rất nhiều phương pháp để điều trị liệt dtk VII ngoại biên do lạnh như: uống thuốc, cao dán, cứu, ôn châm, điện châm, thủy châm, laser châm, từ châm, dán thuốc trên huyệt, xoa bóp bấm huyệt… đặc biệt phương pháp châm cứu hiện nay hầu như là chỉ định tất yếu cho điều trị bệnh này. Tuy nhiên châm kim thường gây đau và đôi khi gây nhiễm trùng tại vị trí châm nếu vô trùng không tốt.
Trên cơ sở tìm hiểu cơ chế điện xung tác động lên huyệt, chúng tôi và cộng sự đã áp dụng máy điện châm PG6 của Nhật để điều trị liệt dtk VII ngoại biên do lạnh, bằng cực dán tác động lên huyệt.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu: 62 bệnh nhân được chẩn đoán liệt mặt ngoại biên do lạnh, ở tất cả mọi lứa tuổi. Đề tài được thực hiện từ tháng 12/1999 đến tháng 3/2006 tại Khoa Châm cứu - VLTL-PHCN.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:- Không phân biệt giới tính, tuổi, nghề nghiệp,
- Không có một bệnh lý phối hợp nào.
- Được chẩn đoán Liệt dây thần kinh VII ngoại biên do lạnh.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: chủ yếu dựa vào lâm sàng
- Mất nếp nhăn trán.
- Mất rãnh mũi má.
- Nhân trung lệch.
- Dấu hiệu Charlles Bells (+)
- Rối loạn thần kinh thực vật: khô mắt, chảy nước mắt, giảm tiết nước bọt.
Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân:- Liệt VII ngoại biên không do lạnh: chấn thương, nhiễm trùng.
- Bệnh nhân không tuân thủ nguyên tắc điều trị.
Điều trị: chọn từng cặp theo từng nhóm cơ bị liệt đã được xác định trên lâm sàng:
- Cơ mi: Tình minh - Toản trúc; Ngư yêu - Ty trúc không
- Cơ vòng môi: Nhân trung - Thừa tương
- Cơ má: Địa thương - Giáp xa; Nghinh hương - Quyền liêu
Dán từng cặp điện cực theo từng nhóm cơ như đã nói ở trên, mỗi lần điều trị 6 - 8 huyệt tùy mức độ liệt của từng nhóm cơ.
- Thời gian mỗi lần châm 20 phút/24 giờ
- Thông số sử dụng máy điện châm: Máy điện châm PG6 của Nhật.
+ Dạng xung hình lưỡi cày gián đoạn
+ Tần số ban đầu 10 - 15 nhịp/1 phút, tăng dần tần số theo diễn biến hằng ngày, tối đa 30 nhịp/phút.
- Liệu trình điều trị tối đa 4 tuần
- Đánh giá hiệu quả hàng tuần dựa vào triệu chứng cơ năng và thực thể trên lâm sàng.
- Ghi nhận khách quan hiệu quả điều trị dựa vào hình ảnh được chụp trước, trong và sau khi điều trị.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả nghiên cứuLoại A: Khỏi, mặt bên liệt trở lại bình thường
Loại B: Đỡ, Mắt nhắm kín hoặc nhắm có đỡ hơn. Miệng bình thường cân đối nhưng khi cười nói còn méo. Rãnh mũi má và nếp nhăn trán xuất hiện nhưng chưa trở về bình thường.
Loại C: không đáp ứng, bệnh giữ nguyên không tiến triển.
Phương pháp nghiên cứu:- Phương pháp mô tả, phân tích, so sánh.
- Các số liệu được xử trí theo phương pháp thống kê y học
- BN mắc bệnh ở mọi lứa tuổi, đa số BN ở lứa tuổi 15 - 55 (28 BN chiếm tỷ lệ 45,2%), lứa tuổi < 15 cũng chiếm khá cao (24 BN chiếm tỷ lệ 38.7%) tuổi nhỏ nhất ở nghiên cứu của chúng tôi là 9 tháng.
- Tỷ lệ nam/nữ là 2/3
- Đa số bệnh nhân khỏi bệnh sau thời gian điều trị 2 tuần (32 BN chiếm tỷ lệ 51,6%)
- Số bệnh nhân điều trị kéo dài 1 tháng rất ít (6 BN chiếm tỷ lệ 9,7%)
- Bệnh nhân thường đến sớm trong tuần đầu mắc bệnh (48 BN chiếm tỷ lệ 77,4%) và trường hợp này đa số chưa điều trị gì (42/48 BN chiếm tỷ lệ 87,5% của số BN đến viện trong tuần đầu).
- Bệnh nhân đến muộn (>1 tuần) thường có điều trị trước đó bằng phương pháp khác không đỡ (13/14 BN chiếm tỷ lệ 93% số BN đến muộn đã có điều trị).
- Với bệnh nhân đến sớm chưa điều trị gì, được áp dụng phương pháp điều trị này đạt hiệu quả điều trị khỏi rất cao (41/42 BN chiếm tỷ lệ 97,6%).
- Bệnh nhân đến muộn (> 7 ngày) đã điều trị trước đó bằng phương pháp khác không đỡ, dù liệu trình điều trị kéo dài (4 tuần) nhưng kết quả điều trị cũng rất hạn chế (tỷ lệ lành bệnh: 0%).
- Tỷ lệ giảm, lành bệnh rất cao (53/62 BN chiếm tỷ lệ 83,9%). So với phương pháp kích thích xung điện qua điện cực hút trên huyệt của Ths, Đinh Văn Đính và GS.Chu Quốc Trường (đăng trong tạp chí Châm cứu Việt Nam số 3/2001) có tỷ lệ giảm, lành bệnh là 73,6%. Ta thấy phương pháp này cũng không gây đau đớn và biến chứng co cứng cơ nhưng có tỷ lệ giảm, lành bệnh cao hơn 10,3%.
- Tỷ lệ bệnh nhân không đáp ứng điều trị (9BN chiếm tỷ lệ 15,5%) do đến muộn và đã được điều trị trước đó không khỏi.
- Bệnh nhân đến sớm (< 1 tuần) chưa được điều trị gì tỷ lệ giảm, lành bệnh hầu như hoàn toàn.
III. Kết luận:- Sử dụng điện châm cực dán trong điều trị Liệt VII ngoại biên do lạnh có tỷ lệ khởi đỡ rất cao (84,5%), tương đương với kết quả của các nghiên cứu điều trị bằng diện châm.
- Đây là phương pháp điều trị không gây đau đớn cho bệnh nhân, nên rất dễ áp dụng cho một số đối tượng đặc biệt như: bệnh nhi, cơ địa sợ kim.
- Phương pháp điều trị đơn giản, sử dụng tiện lợi dễ dàng, không gây dị ứng da.
- Là phương pháp điều trị có tính khả thi cao, có thể áp dụng được ở tất cả các cơ sở y tế.
IV. Kiến nghị:1. Cần tuyên truyền phổ biến phương pháp điều trị này đến tất cả các cơ sở y tế điều trị bệnh nội khoa.
2. Tập huấn sâu rộng cho nhân viên y tế về phương pháp và kỹ thuật tiến hành.
(Trích Kỷ yếu các công trình Nghiên cứu khoa học năm 2006
của Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM)