23:59 ICT Thứ năm, 06/02/2025

Danh mục nội dung

Liên hệ

Trang nhất » Tin Tức » Cây thuốc - Vị thuốc

Liên hệ

ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO 冬 蟲 夏 草

Thứ sáu - 04/03/2011 06:35
Đông trùng hạ thảo là một loại khuẩn ký sinh trên một phức thể, gồm một loài côn trùng và một loài nấm (tọa khuẩn) họp thành, côn trùng thuộc họ Lân sí mục.

ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO    冬 蟲 夏 草

Cordyceps sinensis (Berk) Sacc.

Xuất xứ: Bản Thảo Tùng Tân.

Tên khác: Hạ thảo đông trùng (Cương Mục Thập Di), Trùng thảo, Đông trùng thảo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Tên gọi: Vị này mùa đông là côn trùng, mùa hè là cây nên gọi tên là Đông trùng thảo.

Tên khoa họcCordyceps sinensis (Berk) Sacc.

Họ khoa học: Hypocreaceae.

Mô tả: Đông trùng hạ thảo là một loại khuẩn ký sinh trên một phức thể, gồm một loài côn trùng và một loài nấm (tọa khuẩn) họp thành, côn trùng thuộc họ Lân sí mục. Sâu non trông giống con tằm già, dài 3-5cm, lớn 7-10mm, sau khi khô thì bên ngoài có màu vàng kim hoặc màu vàng. Mình sâu non có vân ngang rõ rệt, gần đầu có nhiều vân vòng nhỏ, toàn thân có 3 đôi chân ở ngực, 4 đôi chân ở bụng, 1 đôi ở đuôi, nhưng chỉ có 4 đôi chân ở bụng là rõ, đầu có chất sừng màu đỏ nâu. Sau khi sấy khô, sâu non rất giòn dễ gẫy, thịt màu trắng, rắn và có mùi thơm. Phần khuẩn toạ thường dài hơn sâu non, và dài tới 7cm, màu nâu sẫm hoặc nâu, thường ký sinh trên đầu sâu non, phần đầu hơi phình to ra, như hình trụ tròn, dài và thẳng đứng, ngoài có vân dọc nhỏ, khi sấy khô khuẩn tọa dẻo, dai, khó bẻ gẫy, bên trong màu nâu nhạt. Phần đầu giống hình cái gậy, màu đen tím hơi sẫm, bên ngoài xù xì, có nhiều hạt nhỏ nổi lên gọi là cầu quả, hình trứng, hoặc hình bầu dục tròn. Quan sát dưới kính hiển vi thì thấy mỗi quả cầu bên trong có nhiều tử nang hình dài, mỗi nang tử có nang bào tử cách mô đó là công cụ truyền ty khuẩn cho thế hệ sau. Đỉnh khuẩn tỏa nhọn, không có cầu quả, màu nâu xám hoặc nâu đen.

Trước đây, người ta cho rằng đây là vị thuốc mà mùa đông hóa thành sâu, mùa hè trở thành cây cỏ. Thật ra đó là một thứ nấm mọc ký sinh trên sâu non của một loại cây như đã mô tả trên. Về mùa đông sâu nằm im dưới đất, nấm phát triển vào toàn thân sâu để hút chất bổ dưỡng trong con sâu làm cho sâu chết. Đến mùa hè, nấm sinh ra cơ chất mọc chồi khỏi mặt đất, nhưng gốc vẫn dính liền vào đầu của con sâu. Khi nào người ta đào lấy cả sâu và nấm để dùng.

Địa lý: Chủ yếu sản xuất ở các vùng Cam Tự, Lương Sơn, Tây Xương, Lạng Sơn, Miên Dương (tỉnh Tứ Xuyên), chuyên khu Nhã An, ở Ngọc Thu, Quả Lạc, Đồng Đức, Đồng Nhân (Thanh Hải), Đức Khâm, Lệ Giang (Vân Nam). Ngoài ra còn được sản xuất ở Tây Tạng, Quý Châu, Cam Túc.

Trùng thảo thường sinh trưởng ở các bãi cỏ, hướng về phía mặt trời mọc, nơi không có rừng và độ cao 3.000m. Trùng thảo ưa nơi khô ráo, thoáng, đất nhiều mùn. Theo kinh nghiệm của nông dân ở chuyên khu trồng cây thuốc thì Trùng thảo có qui luật phát triển tự nhiên như sau: ‘Thảo trùng sinh cương, Bối mẫu sinh hàn’ . Ở vùng cao, trùng dài thảo ngắn thịt chắc màu trắng, mùi thơm, cứ khoảng 800-1000 trùng thảo tươi sẽ sấy được 0,5kg trùng thảo khô. Trùng thảo có quan hệ mật thiết với khí hậu, nếu ở vùng ấm, thì trùng thảo thường chín sớm. Nếu khí hậu khô nhiều rồi mưa cũng nhiều thì trùng thảo phát triển kém, ngược lại nếu thời tiến nắng mưa xen kẽ thì nó phát triển tốt. Ở vùng cao trong mùa xuân, trời lạnh ráo lâu rồi mưa lâu, thì phải 1700-1800 cái trùng thảo mới thu được 0,5kg trùng thảo khô. Bởi vì trùng thảo không phải đơn thuần thích nóng và chịu được lạnh, mà trong điều kiện khí hậu lạnh, nó cũng cần một độ ấm nhất định nên nó thường sống ở vùng núi cao (nơi hướng về mặt trời, nếu chỉ nhiệt độ thấp thì không đủ điều kiện). Năm 1959, khi đưa trùng thảo sống về nuôi ở học viện Tứ xuyên để nghiên cứu, người ta bỏ trúng vào trong thùng để ở nhiệt độ thấp, kết quả trùng thảo bị chết hết.

Hiện nay trùng thảo vẫn thuộc loài cây thuốc mọc  hoang. Gần đây, nhờ sự điều tra nghiên cứu và quan sát thục địa, người ta đã có những hiểu biết thêm về trùng thảo. Dưới đây là kinh nghiệm nuôi trùng thảo ở huyện Bảo Hưng, tỉnh Tứ Xuyên: Vào tháng 8 năm 1959, huyện Bảo Hưng đã đào được 65 trùng thảo (cả cỏ) đem về nuôi trùng trên vách tường (ở độ cao 2.500m). Đến ngày 25-3-1960, quan sát đã thấy có nhiều ấu trùng hình thù như con tằm, ngày 20-5 thảo trùng mới sinh đã bò ra ngoài mặt đất ở phạm vị 1m quanh khu nuôi trùng thảo ban đầu đều có thể đào được trùng thảo. Hình thái, mùi vị của nó đều không khác gì trùng thảo mọc hoang. Đề tiếp tục nghiên cứu cách nuôi trùng thảo, vào hạ tuần tháng 5-1960, người ta đã đưa 2000 thảo trùng về nuôi ở độ cao 2000m và tới tháng 7 lại đưa thêm 2.400 thảo trùng về nuôi ở độ cao 1.500m, và đang tiếp tục nghiên cứu.

Phân biệt:

1- Cần phân biệt với con tằm Dâu (Bombyx botryticarus) (Xem: Bạch cương tàm).

2- Ở miền Bắc Việt Nam, có một loài bướm (brihaspa atrostigmella) đẻ trứng ở ngoài thân cây và các con sâu nhộng chui vào và lớn lên trong các chồi của cây Đót hay còn gọi là cây Chít (Thysanolaena maxima Oktze) thuộc họ Poaceae. Đó là cây cỏ sống lâu năm. Thân cao 1-3m, cứng, thẳng tròn khía rãnh. Lá nhiều, dai, hình mũi mác rộng, nhọn đầu, có tai, ôm thân ở gốc, phẳng nhám ở mặt trên, dài 30-60cm, mép lá nhám nhẹ, bẹ lá hình trụ, cứng nhẵn, họng có lông, bóng, lưỡi bẹ rất ngắn, nhụt. Cụm hoa là chùy tận cùng mềm, lúc già hơi cong xuống dài 30-60cm, cuống chung khía rãnh, nhẵn. Nhánh nhiều, khía rãnh, nhẵn. Bông nhỏ rất nhiều, hình đãi thuôn, nhọn đầu, bóng, màu vàng nhạt. Mày mều, hình bầu dục, có lông ở đỉnh. Hoa ở dưới trung tính, hoa ở trên lưỡng tính. Nhị 2-3, bao phấn ngắn. Bầu có 2 vòi, rời ở gốc, đầu nhụy có lông, thò ra ngoài. Quả nhỏ bé, thuôn, gần tròn, có mày hoa cứng bao bọc. Cây có hoa tháng 6-10. Hay mọc ở đồi thấp, ven rừng, nơi nhiều nắng, đất sâm, ẩm. Người ta dùng cụm hoa già làm chổi. Còn thân lá lợp nhà.

Vào mùa xuân người ta bắt sâu này để bán thuốc với tên Đông trùng hạ thảo. Đó là nhộng màu trắng dài khoảng 35mm cho vào nước muối để rửa sạch. Rồi rang hay sấy khô. Tẩm mật ong rồi lại sấy khô. Sau cùng ngâm vào rượu thì thấy chất béo nổi lên, như mỡ nước luộc thịt gà. Có thể dùng thay Đông trùng bắc nhưng chất lượng không bằng.

Thu hái, sơ chế: Do sinh trưởng ở độ cao khác nhau, thời gian trung thảo chín cũng khác nhau. Thời vị thu hoặch trùng thảo, trùng thảo mọc hoang có thể kéo dài khoảng 3 tháng. Ở Trung Quốc làm như sau:

Thời vụ thu hoạch: Chia 3 thời kỳ.

a) Trước và sau tiết Lập hạ, được gọi là ‘Báo tín thảo’. Loại này thường sống ở vùng cao 2000m, khí hậu lạnh, tuyết tan nhanh, chín sớm, phần trùng ngắn, phần thảo dài, màu sẫm. Loại này sản lượng ít, ít nơi có.

b) Từ Tiểu mãn tới tiết Mang chủng, là mùa chủ yếu để thu hoạch trùng thảo, thường ở vùng cao 3000m, nhiều nơi có và chất lượng cũng lớn, chất lượng tốt.

c) Trước và sau tiết Hạ chí, chậm nhất tới tiết Đại thử. Loài Trùng thảo này thường sống ở vùng cao trên 3000m, thường thu hoặc sau khi tuyết tan. Do thời gian sinh trưởng kéo dài nên các loại trùng thảo này thường lớn, dài, màu tươi vị nồng, chất lượng tốt nhất, nhưng sản lượng không nhiều. Khi mới nhô khỏi mặt đất, phần khuẩn tọa ở đầu trùng thảo có màu nâu nhạt, dần dần biến sang màu nâu sẫm và dài ra, phần đầu to dần ra, khoảng 10 ngày thì trở nên rỗng, hình dáng như bụng con cá nên còn có tên ‘Ngư đô tử’. Lúc này trùng thảo đã hoàn toàn chín. Phần trùng thể nằm ở dưới đất cũng bắt đầu quặn lại và thối (gọi là ‘Hoá miêu’). Từ khi đầu khuẩn tọa nhô lên mặt đất cho tới khi ‘Hóa miêu’ vào khoảng 20 ngày. Những người đi tìm kiếm phải nắm vững thời gian, đào lấy trùng thảo khi nó mới nhô lên khỏi mặt đất khoảng 3cm. Bởi vì lá lúc trùng thảo trắc nhất, mùi vị thơm nhất, nếu để tới khi nó thối rữa ra, thì sẽ ảnh hưởng tới chất lượng. Bởi vậy trong mùa thu hoạch, phải tổ chức việc lên núi, tranh thủ lúc tuyết chưa tan hết, trùng thảo mới nhô khỏi mặt đất mà thu hoạch. Lúc này trùng thảo phần lớn lộ ra ở chỗ ít tuyết đọng, dễ thấy. Nếu để tuyến tan hết, cỏ dại mọc lên thì sẽ khó mà phát hiện được trùng thảo. Về số lượng mỗi người mỗi ngày có thể đào được khoảng 1000 trùng thảo, nếu ít thì cũng được vài chục cái.

Trùng thảo đào về được, rũ sạch đất và bỏ lớp vỏ già màu đen đi, nếu để nó dính thì khi khô khó bóc, ảnh hưởng tới màu sắc của trùng thảo. Tuy nhiên ở vùng cao đất rộng, thông thường khi lấy được một số trùng thảo xong là người ta đem bán ngay, nên độ khô ướt của chúng khác nhau, ở nơi thu mua, sau khi đã làm khô 7,8 phần 10 thì bóc vỏ, không nên để trùng thảo quá ướt hoặc quá khô, vì như thế sẽ dễ lẫn tạp chất hoặc dễ gãy. Cách làm cụ thể như sau:

Lấy bao tải bên trong đựng các mảnh sứ vụn, cho trùng thảo vào, treo lên, rồi cầm tay xóc, tới khi vỏ ngoài bị rụng, lộ phần bên trong màu vàng ra là được. Sau đó sàng bỏ tạp chất sấy khô bằng lửa nhỏ, sẽ thu được sản phẩm. Trước khi chế biến, nếu thấy trùng thảo khô, có thể phun thêm ít nước hoặc rượu, nếu để ướt quá sẽ dễ bị dính bụi. Sau khi chế biến thành màu nâu vàng. Chú ý khi sát vỏ không được  mạnh tay, vì dễ gãy trùng thảo.

Buộc trùng thảo: Trước khi phun nước hoặc rượu, nên bó trùng thảo thành túm, mỗi túm, mỗi túm 5,6 cái, rồi buộc thành bó, mỗi bó 125gr. Sau khi buộc thành bó hình chữ nhật thì sấy qua lửa nhỏ hoặc hun lưu huỳnh, chải sạch rác, bỏ vỏ ngoài, sẽ thu  được bó thảo trùng, lúc này chỉ cần cho vào túi nilon gói lại (Cứ mỗi con hoặc 10 con người ta hay thắt ngang một sợi chỉ đỏ ngang chỗ nấm rất đẹp).

Phần dùng làm thuốc: Khuẩn toạ, khuẩn ty và xác ấu trùng.

Mô tả dược liệu: Vì thuốc gồm nấm và sâu non dài, chừng 2-3cm, đường kính chừng 3-5mm biểu hiện màu vàng nâu hay màu xám nâu. Tự đầu của con sâu mọc ra một thân nấm hình trụ (đặc biệt có khi 2 hay 3 con sâu). Thân nấm thường dài 3-6cm, có khi tới 11cm. Phía dưới thân nấm có đường kính 1,5-4mm, phía trên to phình ra, cuối cùng là thon nhon, cả phần này dài 10-45mm, đường kính 2-6mm, nếu còn non thì đặc, già thì thân rỗng.

Tính vị: Vị ngọt, tính bình, hơi ấm.

Quy kinh: Vào kinh Phế, Thận.

Tác dụng: Bổ phế, ích thận, hóa đờm, cầm máu.

Chủ trị:

+ Trị ho do hư lao, ho ra máu, ra mồ hôi nhiều, liệt dương, đau mỏi lưng gối, di tinh, người ta cho nó bổ như Nhân sâm.

Liều dùng: 4,5g - 9g.

Kiêng kỵ: Chứng thuộc huyết và Phế có nhiệt thì cấm dùng.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Đông trùng thảo 15 con, Vịt già 1 con làm xong sạch sẽ, bỏ lòng ruột, chẻ đôi đầu vịt ra cho Đông trùng thảo vào cột chặt gài đầu vào bụng cho gia vị vào, thêm hột sen, chưng tiềm cho nhừ ăn hết thịt và nước. Trị bồi bổ sau bệnh nặng, sau nhiều lần giao hợp (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+  Viêm khí quản mãn tính, bồi bổ cho người già, dùng Đông trùng thảo 6g, Khoản đông hoa 4,5g, Tạng bạch bì 6g, Cam thảo 5 phân, Tiểu hồi hương 1 phân sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Tham khảo:

. Đông trùng hạ thảo được toàn khí của âm dương, cái gọi là trong âm có dương trong dương có âm, một âm một dương cùng làm nguồn gốc cho nhau. Vì thế mà có thể bào hộä được phế ấm, hết ho lao, ích hỏa ở mệnh môn, trị liệt dương, suy nhược sinh dục. Nấu chung nó với thịt vịt là vị thuốc quý để bổ hư tổn, suy nhược (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).

+ Theo sự khảo sát và nghiên cứu về Thảo trùng trong những năm gần đây có một số vấn đề cần phải được nghiên cứu và đi sâu thêm.

a) Năm 1959, có người đào được con sâu non còn sống chưa bị ký sinh, mấy ngày sau sâu non biến thành nhộng rồi thành ngài, có thể đẻ trứng. Nên chú ý quan sát, nghiên cứu xem trứng có thể nở thành sâu non, rồi cấy khuẩn ty Trùng thảo lên đầu sâu non hay không?

b) Ở những nơi có trùng thảo thường đồng thời có cả Bối mẫu, Xuyên Mộc hương, Hoàng thảo...là những cây thuốc thân thảo có vị thơm.

c) Có trùng thảo cả đầu lẫn đuôi đều nhô khỏi mặt đất. Còn thông thường chỉ có một đầu nhô thẳng lên mặt đất.

d) Khi bị mục trong đất, trong thân của trùng thảo thường có một hai con sâu non rất nhỏ hình tơ nhỏ, màu trắng, trong suốt, ăn chất dinh dưỡng trên thân trùng thảo, sau mới tản đi kiếm ăn các nơi khác. Sau mùa đông, chúng khá lớn nhanh, toàn thân vẫn có màu trắng trong suốt. Như vậy, quan hệ của loài trùng này với loài trùng thảo ra sao, cần được nghiên cứu thêm.

d) Hiện nay kỹ thuật nuôi và nhân giống trồng thảo là vấn đề đang được nghiên cứu. Vấn đề đặt ra khá phức tạp. Ví dụ có mấy loài ấu trùng có thể ký sinh như ấu trùng của loài Lân xí mục? Làm thế nào con người có thể làm và gây giống được?

e) Năm 1959, huyện Bảo Hưng có nuôi trùng thảo bằng cách lấy cả đất nơi trùng thảo sống cũ mang về, có thể trong đất ấy có cả khuẩn chủng trùng thảo bằng cách lấy cả đất nơi trùng thảo sống cũ mang về, có thể trong đất ấy đã có cả khuẩn chủng trùng thảo và ấu trùng Lân xí mục, cũng có thể nơi đất mới phù hợp với ấu trùng Lân xí mục và của khuẩn trùng thảo ký sinh. Các vấn đề trên cần được tiếp tục nghiên cứu (Kỹ Thuật Nuôi Trồng Và Chế Biến Dược Liệu).

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Đăng nhập thành viên

Thăm dò ý kiến

Cách tổ chức thông tin trên theo bạn là?

Rất thân thiện

Rất đẹp

Hợp lý

Khó sử dụng

Logo Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa
Logo Cơm Chay Dưỡng Sinh Liên Hoa
Các món ăn Liên Hoa quán