ĐIỀM QUA ĐẾ 甜 瓜 蒂
Cucumis melo Linn.
Xuất xứ: Bản Kinh.
Tên Việt Nam: Dưa Gang.
Tên khác: Cam qua (Đường Bản Thảo), Quả qua (Bản Thảo Cương Mục), Chân tang qua (Nhật Bản), Qua đinh (Thiên Kim), Khổ đinh hương (Tượng Hình), Qua đình (Hòa Hán Dược Khảo) Qua đế (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học: Cucumis melo Linn (Cucumis melo L Var conomon Makino).
Họ khoa học: Cucurbitaceae.
Mô tả: Cây thảo sống hàng năm, dây leo, thân nhám.Lá hình thận hay hình tròn, hơi xẻ thùy, có răng ở gốc, hình tim, phiến lá có lông nhám. Tua cuốn đơn. Hoa vàng. Hoa đực họp thành chùm, Đài có lông rậm ở mặt ngoài. Cánh dính nhau khoảng 1/3. Nhị 3/5 nhị, trong đó có 4 nhị dính nhau từng đôi một. Bao phấn có đầu nhọn. Hoa cái có bầu gồm 3-5 lá noãn, vòi nhụy ngắn, 3-5 đầu nhụy tù. Hạt nhiều. Quả có hình dạng thay đổi, thịt quả trắng hay xanh nhạt, không có hương vị, tương đối cứng. Có quả vào mùa hạ.
Địa lý: Cây sinh sản ở Việt Nam, trồng khắp nơi.
Thu hái, sơ chế: Thu hái quả chín vào mùa hè.
Phần dùng làm thuốc: Tai cuống dưa (Calyx melo).
Mô tả dược liệu: Cuống quả khô hơi cong, có vết nhăn góc hơi co rúm, mút trên hơi nhỏ, đoạn núm nối với quả tương đối lớn vỏ quả của tai biểu hiện hình tròn hoặc hình dạng khác, phần nhiều lá uốn cong, màu vàng nâu.
Bào chế:
. Lấy tai quả dưa chín xắt lát phơi âm can tán bột, hoặc để nguyên mà sắc.
. Khi dùng chớ dùng loại tai cuống trắng, nên chọn dưa màu xanh, khí đầy đủ thì cuống tự rụng trên dây, Thu hái phơi trong phòng có gió đông thổi tới cho khô (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Luận).
. Điềm qua đế tức là vỏ dưa chỉ dùng cuống đế dài chừng 1,6mm phơi nắng cho thật khô khi cần tán bột dùng (Đường Bản Thảo).
. Theo ‘Đường Giao’ ghi rằng ‘Dùng Điềm qua đế lấy cuống núm tròn mà ngắn của quả tròn trịa là tốt. Nếu dưa thơm dài như quả bầu thì cuống núm không nên dùng làm thuốc (Bản Thảo Cương Mục)
Tính vị: Vào Kinh vị.
Tác dụng : Tán bột thổi vào mũi có thể trị vàng da, trĩ mũi.
Liều dùng : 1,5g-3g. Tán bột dùng 1-2g.
Kiêng kỵ: Đàn bà có thai, cơ thể suy nhước mất máu, ho ra máu : cấm dùng.
Ghi chú:
. Trúng độc Qua đế có thể liệt trung khu hô hấp gây chết.
. Uống trong có thể gây ra nguyên nhân nôn mửa do thuốc kích thích niêm mạc dạ dày.
. Qua đế sấy thổi vào mũi trị viêm gan truyền nhiễm và xơ gan.
. Qua đế còn mới vị đắng có hiệu quả hơn loại cũ, lâu ngày mất phẩm chất.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, phòng sâu mọt.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị trúng nắng mình sốt, đau đầu, mạch vi nhược vì mùa hè gặp phải lạnh gây ra, dùng Qua đế 27 cái, sắc với 1 thăng nước còn một chén nhỏ uống, uống vào sẽ mửa (Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị sốt rồi vàng da, dùng Qua đế tán bột lấy một chút Đại hồi thổi vào trong mũi, chảy ra nước vàng thì đỡ (Thiên Kim Phương).
+ Trị bỗng nhiên chảy nước miếng, té ngã : Qua đế tán bột, mỗi lần uống 3-6g. Nị phấn 3g, trộn nước nửa chén đổ vào hồi lâu nước miếng tự ra, nếu không ra thì cho uống một cục đường phiền thì đờm dãi ra (Bản Thảo Diễn Nghĩa ).
+ Trị các loại phong, các loại động kinh, phong đờm :Qua đế sao vàng, tán bột, uống với dấm thì mửa. Động kinh thêm Yết tiêm 1,5g. Sưng húp do thấp khí thêm Xích tiểu đậu tán bột 3g. Có trùng lãi thêm mỡ chó 5-7 giọt, Hùng hoàng 3g. Nếu nặng thêm Nguyên hoa 1,5g thì nôn mửa ra sán lãi (Hoạt Pháp Cơ Yếu ).
+ Trị động kinh, hầu phong, ho, phong chẩn toàn thân, thuốc này không làm cho nôn mửa mạnh mà chỉ ra nước nhớt : dùng Qua đế tán bột, người lớn khoẻ mạnh uống 1,5g, người già trẻ uống 0,75g, uống ngày 2 lần sáng tối, khi uống nên ngậm một cục đường, một lúc thì nôn ra nhớt dãi, sau đó ăn cháo, nếu nôn ra nhiều, người khó chịu dùng một chút Xạ hương uống thì đỡ (Kinh Nghiệm Phương).
+ Trị suyễn thở gấp, vùng trên tim đầy cứng, muốn uống nước : Qua đế 2 chén nhỏ, Xích tiểu đậu 1 chén, tán bột, Tương nóng 5 chén, mỗi lần uống một muỗng cà phê, một lúc sau thì sẽ nôn ra. Nếu không mửa thì uống tiếp, miệng ngậm nước thổi vào mũi cũng được (Thương Hàn Loại Yếu).
+ Trị động kinh, hầu phong, đờm nhiệt ủng thịnh, yết hầu bế tắc không thông, nấc cụt, phù mắt :
Qua đế, Uất kim, các vị bằng nhau tán bột, uống lần 3g với nước, sẽ nôn ra đờm dãi (Lâm Sàng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị thượng quản tích tụ thức ăn, đờm dãi ở thượng cách, ngộ độc thực vật : Qua đế, Xích tiểu đậu, các vị bằng nhau tán bột, lần uống 3g, lấy Hương xị nấu lấy nước uống, khi nào nôn thì thôi (Qua Đế Tán - Lâm Sàng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị vàng da do thấp nhiệt, vàng da cấp tính, khát nước muốn uống, suyễn thở gấp vàng mắtphù thũng toàn thân: Qua Đế Tán’ (Xem trên). Mỗi lần uống 3g, uống nóng .(Lâm Sàng Trung Dược Thủ Sách).
+ Chỉ dùng Qua đế tán bột, thổi vào mũi một chút, ngày 2-3 lần. Trị viêm gan vàng da cấp tính (Lâm Sàng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Điềm Qua đế là thuốc chuyên làm cho mửa. Hễ đờm dãi đình ở thượng cách, thức ăn đình tích ở giữa bụng, đều có thể dùng nó để tuyên tiết mà đưa ra ngoài. Ngoài ra, như các bệnh động kinh, hầu tý cũng do đờm ẩm trệ gây ra vì vậy dùng nó cũng có hiệu quả. Khi trị vàng da thì dùng nó cũng có hiệu quả. Khi trị vàng da dùng nó thổi vào trong mũi làm cho ra nước vàng thì lành. Các sách trước đây như ‘Thiên kim dực phương’ trị sốt vàng da Mạnh Sằn trong ‘Thực Liệu Bản Thảo’ trị âm hoàng, mình mặt phù thũng. Trương Tử Hòa nói rằng: ‘Làm cho ra nhớt dãi, hách xìa (hắt hơi), chảy nước mắt. Hễ làm cho nó đi lên, đều là phép thổ cả’ dùng Qua đế thổi vào mũi cho ra nước nhớt dãi, đều là ý nghĩa này vậy. Sau khi dùng Qua đế thì mửa ọe, tất nhiên phải tổn thương tới Vị khí, cần phải có biên pháp chế lại, bằng cách dùng một ít Xa hương uống thì đỡ (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn