ĐIỀN THẤT 田 七
Panax pseudo-Ginsing Wall.
Xuất xứ: Bản Thảo Cương Mục.
Tên Việt Nam: Tam thất, Sâm tam thất.
Tên khác: Kim bất hoán (Cương Mục), Tam thất thảo, Thổ tam thất, Thủy tam thất, Hạn tam thất, Kiến thủng tiêu, (Thực Vật Danh Vậng), Sơn tất, Tam thất mạt, Sâm tam thất, Nhân sâm tam thất (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên gọi:
. Cây cho lá bên trái ba, bên phải bốn, nên gọi là Tam thất.
. Vị thuốc rất quý đến nỗi vàng không đổi được gọi là Kim bất hoán.
. Tứ lúc gieo tới lúc ra hoa phải mất 3 năm, cho đến khi thu hoặc rễ phải mất 7 năm.
. Lá Tam thất có 3-7 lá chét nên gọi là Tam thất.
Tên khoa học: Panax pseudo-Ginsing Wall. (Panax repens Maxim).
Họ khoa học: Araliaceae.
Mô tả: Loài cây thân nhỏ thuộc loại thân củ, sống nhiều năm. Cây cao khoảng 30-65cm, mọc đứng vỏ cây không có lông, có rãnh (kẽ, đường nứt) dọc, củ, (rễ) hơi hình trụ tròn gọi là ‘Thất đầu tử’. Đầu củ có những kẻ nứt rõ rệt và những vết nẻ dọc đứt quản, củ dài khoảng 2-6cm, đường kính độ 1-1,25cm, đồng thời có nhiều rễ phụ. Đầu trên củ nối liền với gốc thân cây, chỗ này người ta gọi là ‘Dương trường đầu’ có chồi, có màu xanh sẫm, lúc bắt đầu mọc nhú lên khỏi mặt đất, đầu chồi (mầm) khum xuống, giống như cái móc câu, vào khoảng tháng 3-4 thì dần dần uốn thẳng lên. Lá kép kiểu bàn tay xòe, cây 2 tuổi trở lên thì có 2-6 lá kép, mọc chùm vòng quanh ngọn cây, cuống lá dài khoảng 3-10cm, trơn bóng không có lông; lá đơn từ 5-7 lá, dài độ 7 - 13cm, hình trứng hay lá hình kim nhọn, các gân lá có mọc cách rất nhiều lông cứng màu trắng, mặt lá màu xanh sẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, rìa lá có răng cưa nhỏ. Vào khoảng tháng 6-7 từ trên ngọn cây nhú lên hoa tự hình tán, gồm nhiều hoa đơn, hoa đơn, hoa đơn từ chung quanh hoa tự nở dần vào trong giữa, cuống hoa trơn bóng không có lông, hoa lưỡng tính cùng lẫn với hoa đơn tính, có 5 cánh màu xanh, phần lớn là 2 tâm bì. Quả thuộc loại quả mọng, chín vào tháng 10-12, lúc chín màu đỏ tươi, thường gọi là ‘hạt đỏ’. Mỗi quả có 1-3 hạt, hạt tròn như hình cầu, vỏ trắng.
Địa lý: Nơi phân bố và sản xuất chính là huyện Văn Sơn, khu tự trị dân tộc Choang, dân tộc Mèo Văn Sơn, các huyện Nghiên sơn, Tây Trù, Mã Quan, Phú Ninh, Quảng Nam tỉnh Vân Nam, và dùng Điền Dương trong chuyên khoa Bạch sắc, các huyện Tĩnh Tây, Đức Bảo, Lục Biên, , khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, nối liền với các vùng có sản xuất Tam Thất ở tỉnh Vân Nam thành một vòng đai. Hiện nay đã di thực trồng ở Việt Nam, được trồng ở vùng núi cao trên 1000m, thuộc tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn.
Thu hái, sơ chế: Thu hoạch vào tháng 7 là tốt nhất, củ nặng màu đẹp, sản lượng cao, là loài ‘Xuân thất’ (Tam thất xuân) có giá trị nhất thị trường, thu hoặch về sau quả và rễ củ đã tiêu phí đi mất một số dinh dưỡng để cấu tạo quả, hạt mặc dù củ to nhưng xốp nhẹ, gọi là ‘Đông thất’. Tam thất thu hoặch 20 ngày trước và sau trung, hạ tuần tháng 7, đều có khác nhau về chất lượng, loại thu hoạch trước thì cứ 3kg củ (rễ) tươi sau khi phơi được 1kg khô, loại thu hoạch sau thì 4 kg tươi phơi mớ được 1 kg khô. Sau khi thu hoạch. Sau khi thu hoạch, phơi tới lúc khô được một nửa, thì về sau vừa phơi vừa lắc để rơi hết đất, vỏ củ nhẵn bóng do sự cọ xát, tốt nhất là cứ phơi 3-4 ngày rồi sát 1 lần, độ 1 tháng đến 1 tháng rưỡi thì khô kiệt.
Cách lắc xát, lấy chiếc bao tải đay, bỏ củ vào trong bao, túm chặt mỗi người một đầu rồi lắc đi lắc lại, thời gian lắc như vậy tùy theo độ khô của củ mà định, lúc khô 80%, thì mỗi lần lắc cho nó cọ xát nhau như vậy là 1 giờ. Cách sơ chế này tốn công, sau này có thể dụng máy tuốt lúa thay cho cách trên thì tốt hơn.
Phần dùng làm thuốc: Rễ củ.
Mô tả dược liệu: Rễ củ phơi, khô, rắn nặng, đen, thịt xanh xám. Mặt ngoài màu vàng xám nhạt hoặc được đánh bóng màu đen nhạt, trên đỉnh còn vết tích của thân. Chất cứng, đập vỡ, phần gỗ và mô vỏ dễ tách rời nhau. Mặt cắt ngang mịn ta thấy lớp vỏ màu trắng nhạt có những điểm nhựa màu nâu. Mùi nhẹ, vị đắng, hơi ngọt. Bột màu vàng nhạt có nhiều hạt hình tròn hay nhiều cạnh, ống nhựa trong có nhựa màu nâu vàng. Củ mọc hoang ở rừng núi, cứ 85củ là 1 kg hoặc 102 củ là 1 kg, đó là loại tốt, loại cứng nặng đen, thịt xanh xám, chỗ cắt mịn thì tốt, còn thịt trắng vàng là kém, thứ Tam thất gây trồng thì bé hơn, loại da nhăn ít đắng thì kém phẩm chất.
Bào chế:
1- Tán bột hoặc mài với nước uống, không sắc hoặc sao tẩm gì cả.
2- Ủ rượu 3 giờ cho mềm xắt nhỏ sao qua, tán bột để dùng.
3- Dùng tươi rửa sạch giã đắp lên vết thương.
Tính vị: Vị ngọt hơi đắng. Tính ấm.
Quy kinh: Vào 2 kinh Can, Vị.
Tác dụng: Hành ứ, chỉ huyết, tiêu sưng, giảm đau.
Chủ trị: Trị nôn ra máu, chảy máu cam, xuất huyết do ngoại thương, rong kinh, đau bụng do huyết trệ, chấn thương do té ngã, bị đánh đập, lở loét, sưng đau.
Cách dùng: Uống trong mỗi lần dùng 3-15g, có thể tới 30g. Bên ngoài dùng tùy thích giã nát đắp hoặc sắc lấy nước rửa.
Liều dùng: 1,5g - 9g. Thường tán bột uống với thuốc lần 1 -3g.
Kiêng kỵ: Huyết hư, không có ứ nhiệt cấm dùng.
Bảo quản: Đựng trong lọ kín có chất hút ẩm, để nơi khô mát.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị nôn ra máu, chảy máu cam: Sơn tất, 3g, nhai nuốt, uống với nước cơm (Tập Giản Phương).
+ Trị xích lỵ, huyết lỵ: Tam thất 21g, tán bột uống với nước vo gạo ( Tập Giản Phương).
+ Trị tiêu ra máu: Tam thất tán bột, uống 1-6g với rượu trắng, ngày 3 lần, uống thuốc thang Tứ Vật thêm 2g Tam thất, trị băng huyết phụ nữ ( Tập Giản Phương).
+ Trị sau khi sinh huyết ra nhiều: dùng Sơn tất tán bột uống với nước cơm 3g (Tần hồ, Tập giản phương).
+ Trị đỏ mắt: dùng Sơn tất mài lấy nước đắp quanh mắt rất có hiệu quả (Tần hồ, Tập giản phương).
+ Trị đinh nhọt sưng đau, đau nhức không chịu được: Sơn tất mài lấy nước, trộn dấm bôi, nếu đã phá mủ, tán bột bôi vào (Tập Giản Phương).
+ Trị rắn cắn, cọp cắn: Sơn tất tán bột, uống lmỗi ần 9g với nước cơm, hoặc nhai đắp vào (Tập Giản Phương).
+ Trị thiếu máu, thiếu máu sau khi sinh, Tam thất hầm với gà non hoặc tần với gà ăn rất bổ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị xuất huyết nội tạng, u nội tạng, thiếu máu, mất máu, giảm tiểu cầu: Tam thất tán bột uống mỗi ngày từ 4,5-9g. Nếu chảy máu cấp dùng gấp đôi. Kết quả tốt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Dùng lá giả nhuyễn trong uống, ngoài đắp, trị bị thương chảy máu (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị nôn ra máu, chảy máu cam, đai tiểu tiện ra máu: Tam thất 4,5g, Hoa nhị thạch (nung) 15g, Huyết dư thán 6g. Tán bột uống mỗi lần 6g, ngày 2 lần (Hoá Huyết Đơn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược thủ Sách).
+ Trị các loại xuất huyết nội: Tam thất 60g, Bạch cập 60g, Hổ phách 30g, Đại giả thạch 30g, tán bột, rây thật mịn, mỗi lần uống 7,5g, ngày 3 lần với nước (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị tím do giảm tiểu cầu: Tam thất 9g, Bạch mao căn 30g, Ngẫu tiết 3g, Sinh địa 9g, Thuyên thảo 9g, Câu kỷ 15g, Liên mễ 30g, Thạch cao 3g. Sắc uống ngày 1 thang, Trẻ nhỏ giảm bớt (Tam Thất Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị đau nhức do chấn thương, té ngã: Tam thất 4,5g - 9g. Tán bột, mỗi lần uống 0,6 – 0,9g, ngày 3 lần uống với nước (Tam Thất Tán - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị đau thắt tim: Tam thất, Nhân sâm. Tán bột uống mỗi lần 5 phân, ngày 2 lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị ứ huyết ngưng trệ gây ra sưng đau, rắn độc cắn : Tam thất mài nước uống với nước giấm cơm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
Công dụng Điền thất đại khái chia ra làm 4 loại: Cầm máu, hóa ứ, giảm đau, tiêu sưng. Chẳng kể uống bên trong hay dùng bên ngoài đều thấy rất kiến hiệu. Trong trường hợp cầm máu lại có hiệu quả rất đặc thù, trong trường hợp giảm đau chẳng kể là đau do khí trệ, huyết nghẹt do phong thấp, đều có thể dùng nó mà trị, hiệu quả rất cao. Dùng trong sưng tấy ung độc, hoặc sưng đau do chấn thương có công hiệu tiêu tan rất nhanh. Vì thế Hoàng Cung Tú mới cao hứng cho nó là ‘có thể hóa huyết làm thành nước’. Trương Tích Thuần lại cho rằng: ‘Chỉ một vị Tam thất, có thể thay cho ‘Hạ Ứ Huyết Thang’ trong ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ , so với nó lại còn ngon lành hơn Hạ Ứ Huyết Thang nữa, trong công dụng hóa ứ của nó đạt được rất tuyệt vời. Vị Tam thất hiện nay người ta đang rất chú ý tới và dùng nó để trị liệu, ung thư, hiện đang trong thời gian nghiên cứu Tam thất chẳng những dùng nó để trị bệnh, dan gian thường hầm nó với thịt gà hoặc vịt ăn để trị suy nhược, đó cũng là một thứ thức ăn trị bệnh vậy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Phân biệt:
1- Cần phân biệt với cây Điền thất nam, còn gọi là Cốt khí củ (Polygonum cuspidatum Sieb. Et Zucc) thuộc họ Polygonacea. (Xem: Hổ trượng).
2- Ngoài ra, người ta còn dùng cây Vũ diệp tam thất còn gọi là Tam thất hoang (Panax Bipinnatifidus Seem.) đó là cây cỏ sống lâu năm, cao 30-50cm. Rễ củ có nhiều đốt. Thân mảnh, mọc thẳng mang 2-3 lá mọc vòng. Lá kép chân vịt 5-7 lá chét dài, xẻ thùy không đều, mép khía răng, có lông. Hoa nhỏ mọc thành tán ở ngọn thân, màu trắng xanh. Quả mọng, màu đỏ. Cây có mọc hoang ở rừng núi cao lạnh hoặc được trồng ở các vườn thuốc, trồng bằng hạt hoặc đầu rễ. Công dụng như Điền thất vừa mô tả trên.
3- Cây tam thất (Panax pseudo-Ginseng Nees) mọc hoang ở trong một số rừng Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu Việt Nam, gần biên giới Vân Nam, nhân dân vùng Phó Bảng, Phố Cao, Đồng Văn, Quản Bạ trồng sản xuất sang Trung Quốc. Đó là cây thảo có rễ củ, có thể trụi lá trong mùa rét. Thân đơn, có một vòng lá kép chân vịt, năm thứ nhất chỉ có 3 lá chét, năm thứ 2 mới đủ 5 lá chét, lá chét hình trứng, đầu nhọn. Hoa mọc thành tán đơn độc ở ngọn. Đài hình chuông, có 5 răng ngắn. Tràng 5 gốc rộng, đầu nhọn. Nhị 5, mọc cao hơn tràng. Bầu có 2 ô, trên có vài vòi rời. Quả hạch có 2 hạt cứng, khi chín màu đỏ. Ra hoa vào mùa hè. Tác dụng như Điền thất ở trên.
4- Phân biệt với tên Thổ điền thất (Stahliathus Thorelii Gagnep) thuộc họ Zingiberaceae (Xem: Khương tam thất).
5- Phân biệt với cây Tam thất nam hay cây Ngải máu (Kaempferia rotunda L.) thuộc họ Zingiberaceae, là loại cỏ lá đơn, có bẹ mặt trên điểm nâu, hoa ra trước khi có lá, hoa màu tím, tràng hình ống, cánh môi xẻ sâu. Dùng thân rễ (Xem: Cẩm địa la).
6- Phân biệt với cây Thổ tam thất [Gynura segetum (Lour) Merr} thuộc họ Asteraceae (Xem: Hồng bối tam thất).
7- Phân biệt với cây Ngải tím [Curcuma zedoari (Berg.) Ross} người ta lấy thân rễ của cây này sửa sang hình dạng để giả mạo Tam thất (Xem: Bồng nga truật).
8- Phân biệt với cây Hồi đầu thảo hay Tam thất giả (Schizocapsa plantaginea Hance) thuộc họ Taccaceae (Xem: Thủy điền thất).
9- Ở Trung Quốc, người ta còn dùng cây Tam thất lá lớn [Panax Major (Burk) Tinh.] còn gọi là Đại diệp tam thất, Định phong thảo, đó là cây thảo sống đa niên, cao chừng 40cm. Thân rễ nhỏ dài, nằm ngang, củ phì đại thành hình tròn cách nhau bởi dây rễ, lá kép dạng bàn tay, 3 lá mọc vòng, phiến lá nhỏ 5, hình trứng dạng viên chùy dài 4-10cm, hai bên có răng cưa nhỏ, cuống ngắn, hoa tự hình tán đơn sinh ở đỉnh, cuống dài. Quả mọng hình cầu, đường kính 4mm. Sắc thân rễ uống trị động kinh, viêm khớp do phong thấp, chấn thương ứ huyết, đau dạ dầy, đinh nhọt.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn