ĐỖ HÀNH 杜 衡
Asarum blumei Duchart.
Tên Việt Nam: Biến hóa.
Tên khác: Mã đề hương, Thổ tế tân (Xử Phương Danh), Thổ lỗ (Nhĩ Nhã), Kim tỏa thì (Cứu Cấp Phương), Đỗ qùi, Thổ tế tân (Bản Thảo Cương Mục), Đỗ hành (Tục Danh), Thổ hành, Mộc hạnh, Hoài hương, Đổ tế tân, Bạt nhi thảo, Hành vi thảo, Đỗ hành qùy (Hòa Hán Dược Khảo).
Tên khoa học: Asarum blumei Duchart (Heterotropa nipponica F. Maekawa).
Họ khoa học: Aristlochiaceae.
Mô tả: Cây thảo sống lâu năm có củ nằm ngang dưới đất. Cuống lá dài 5-8cm. Lá mọc cách đơn, không có lá kèm. Phiến lá hình tim, dài 10-15cm, mặt lá ánh có nhiều vết trắng mặt dưới màu tím 4cm.
Hoa hình ống nhỏ, mọc riêng lẻ, lưỡng tính, bao hoa hình ống dài 25cm, phồng xung quanh bầu, miệng chia ra làm 3 thùy, 12 nhị, 6 vòi, tụ họp thành một cột đầy, mang đầu nhụy ở bên. Bầu hạ, 6 ô mỗi ô đựng nhiều noãn đảo, xếp thành 2 dãy. Quả nang dài, nứt nẻ lung tung. Nhiều hạt dẹt.
Địa lý: Mọc hoang ở những nơi ẩm thấp trên miền núi cao các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phú (Tam Đảo, Hà Tuyên).
Phân biệt:
1- Người ta còn dùng cây Biến hóa với tên Thổ tế tân (Asarum caudigerum Hance) đó là cây cỏ sống dai. Thân rễ nằm ngang dưới đất. Từ thân rễ mọc lên 1-2 lá hình tim, có cuống dài. Phiến lá nguyên, mặt trên xanh xẫm, lốm đốm những vết trắng, mặt dưới nhạt. Hai bên mặt đều có lông, dày hơn ở mặt dưới. Hoa màu tím nhạt, mọc riêng lẻ ở gốc cuống lá. Quả dai, khi chín màu nâu đen. Cây mọc hoang ở vùng núi cao lạnh, chỗ bờ suối ẩm mát, khu vục núi đá ẩm thấp có rêu như Tam Đảo, Ba Vì, Cao Lạng, không chịu được vùng nóng thấp. Tác dụng trị bệnh như cây Asarum Blumei Duch.
2- Ngoài hai cây trên ra, cùng trị bệnh như nhau, người ta còn dùng cây Biến hóa núi cao hay còn gọi Tế tân (Asarum balansae Franch) cũng có nhiều ở Ba Vì, Tam Đảo, Sa Pa, đặc biệt cây sống ở độ cao tứ 1000m trên mặt biển trở lên. Đó là cây có thân rễ nhỏ, có nhiều rễ. Lá 2, có cuống dày có lông, phiến lá dũng hơi dày, hình tim ở gốc. Bao hoa màu vàng hơi đốm trắng, ống thuôn hẹp về phía gốc thành một hình nón, còn phía trên thì phình ra thành một phiến có 3 thùy, hình trái xoan, có nhiều lông ở hai mặt. Nhị 12, giống nhau, bao phấn dài. Vòi nhụy dính thành một ống dày, phía đỉnh hơi rời ra và mang các đầu nhụy. Quả nang bao hoa tồn tại.
Thu hái, sơ chế: Thu hái vào mùa đông, rửa sạch, xắt lát, phơi khô.
Phần dùng làm thuốc: Rễ phơi khô.
Tính vị: Vị cay, Tính ấm, Có độc ít.
Tác dụng: Ôn kinh, tán hàn, chỉ khái, định suyễn.
Chủ trị:
+ Trị iêm khí quản mãn tính, Suyễn, đau do phong thấp, tay chân tê.
Liều dùng: 5 phân -3g (rễ khô). Sắc uống. Tán bột uống lần 2-3 phân.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Đau đầu do phong hàn, cảm phong, cảm hàn, đau đầu phát sốt, dùng Mã đề hương tán bột, mỗi lần uống 3g với rượu nóng, ra mồ hôi là đạt (Hương Trấp Tán - Trích Yếu Phương).
+ Nước uống đình trệ, sốt cao, sau khi ăn bánh nóng mà uống nước lạnh quá nhiều không tiêu, đình trệ ở ngựa khó thở, thở gấp: dùng Đỗ hành 3 phân, Qua đế 2 phân, Nhân sâm 1 phân. Tán bột, uống mỗi lần 3g, ngày 2 lần, khi nào nôn ra là được (Trửu Hậu Phương).
+ Thổ huyết, Vị ứ, Hễ sau khi Thổ huyết mà trong tim không phiền muộn thì thôi, nếu có buồn phiền, căng, châm chích tức là có ứ huyết ở Vị nên cho thổ ra. Tán bột, uống mỗi lần 3g, ngày 2 lần, khi nào nôn ra là được (Trửu Hậu Phương).
+ Suyễn ho, đờm, dùng Mã đề hương tán bột, mỗi lần uống 2-9g, khi lên cơn uống với dấm loãng, lát sau nôn ra đờm dãi là tốt (Phổ Tế Phương).
+ Ăn nghẹn, dùng Mã đề hương 120g, tán bột, nấu với 3 thăng rượu ngon thành cao, mỗi lần uống 2 muỗng với rượu, ngày 3 lần (Tập Hiệu Phương).
+ Sưng đau họng không nuốt được, dùng Kim toả thì (Mã đề thảo) lấy rễ giã nát uống (Cứu Cấp Phương).
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn